thuốc điều trị barrett thực quản
Nguyên nhân và cách điều trị Barrett thực quản. Thứ Tư ngày 07/03/2018. Barrett thực quản là một biến chứng nghiêm trọng có thể xảy ra của GERD, viết tắt của bệnh trào ngược dạ dày thực quản. Trong thực quản của Barrett, mô bình thường lót thực quản - ống dẫn thức
Nếu trải qua điều trị khác hơn là phẫu thuật để loại bỏ thực quản, một cơ hội là Barrett thực quản có thể tái diễn. Vì lý do này, bác sĩ có thể khuyên nên tiếp tục để làm giảm acid - thuốc và có bài kiểm tra định kỳ nội soi .
Quyết định lựa chọn phẫu thuật mặc dù điều trị bằng thuốc thành công (do cân nhắc dựa vào các yếu tố như tuổi tác, thời gian hoặc chi phí điều trị v.v..). Biến chứng của bệnh trào ngược dạ dày-thực quản như Barrett thực quản, viêm thực quản độ 3 hoặc 4.
5 Điều trị bệnh Barrett thực quản như thế nào là hiệu quả? Sử dụng thuốc kháng acid để trung hòa lượng axit trong dịch dạ dày và thuốc điều hòa vận động. Theo dõi: Khi được chẩn đoán mắc bệnh Barrett thực quản, người bệnh nên tuân thủ theo chỉ định của bác
Thuốc Gaviscon được chỉ định điều trị các triệu chứng ợ hơi, ợ chua, ợ nóng, rát cổ, khó tiêu,… do bệnh trào ngược dạ dày thực quản gây ra. Hiện nay trên thị trường, thuốc Gaviscon có 3 dạng sử dụng phổ biến nhất là hỗn dịch uống Gaviscon ( gói 10ml), hỗn dịch
Người bệnh trào ngược dạ dày - thực quản nên chia nhỏ bữa trong ngày, không nên ăn quá nhiều mỗi bữa (dưới 400ml/ bữa chính). Hạn chế đồ ăn lỏng, không nên uống quá nhiều nước mỗi lần (dưới 200ml). Nên uống nước giữa các bữa ăn (không uống gần hoặc trong bữa
Vay Tien Nhanh Home Credit. Barrett thực quản là một chứng bệnh thuộc về đường tiêu hóa, thường gặp ở những người mắc bệnh trào ngược dạ dày trong thời gian dài, dẫn tới kích thích niêm mạc trong lòng thực quản, nếu xảy ra trong một thời gian dài có thể ảnh hưởng đến các tế bào lót phần dưới của thực quản, dẫn tới ung thư biểu mô tuyến thực quản. Bệnh Barrett thực quản thường được chẩn đoán ở những người mắc bệnh trào ngược dạ dày thực quản Gastroesophageal reflux disease - GERD, đây là bệnh tái phát mạn tính của việc trào axit từ dạ dày đi lên thực quản dưới. Tuy nhiên chỉ tỷ lệ nhỏ những người bị GERD sẽ phát triển Barrett thực quản. Vậy bệnh Barrett thực quản có nguy hiểm không? Bệnh Barrett thực quản có liên quan đến việc tăng nguy cơ phát triển ung thư thực quản. Mặc dù rủi ro là nhỏ, nhưng điều quan trọng người bệnh cần tái khám thường xuyên các tế bào tiền ung thư Tế bào loạn sản. Nếu các tế bào tiền ung thư được phát hiện, việc điều trị sớm có thể ngăn ngừa ung thư thực quản tiến triển nặng hơn nữa. Nguyên nhân chính xác của bệnh Barrett thực quản hiện nay chưa được biết đến. Hầu hết những người bị Barrett thực quản đều đã mắc bệnh trào ngược dạ dày thực quản trong một thời gian dài. Trong bệnh trào ngược dạ dày thực quản, thức ăn ở trong dạ dày bị trào ngược vào thực quản, làm tổn thương mô thực quản. Khi thực quản cố gắng tự chữa lành, nhưng màu sắc và thành phần của tế bào lót thay đổi ở vùng tấp thực quản do bị tiếp xúc lặp đi lặp lại nhiều lần với axit dạ dày. Tuy nhiên, một số người bệnh được chẩn đoán Barrett thực quản nhưng chưa bao giờ có triệu chứng ợ nóng hoặc trào ngược axit, đối với các trường hợp này các nhà nghiên cứu chưa phát hiện được nguyên nhân gây ra bệnh. Những biểu hiện của Barrett thực quản như sau Người bệnh có triệu chứng ợ nóng thường xuyên Cảm giác khó nuốt khi ăn Đau ngực Tuy nhiên, nhiều người bệnh bị Barrett thực quản không có triệu chứng mà chỉ tình cờ phát hiện khi khám bệnh khác. Khi nào đi khám bác sĩ? Nếu người bệnh gặp khó chịu hoặc ảnh hưởng đến cuộc sống hằng ngày do triệu chứng ợ nóng và trào ngược axit trong hơn năm năm, thì người bệnh hãy đi khám để phát hiện có nguy cơ mắc bệnh Barrett thực quản hay không. Người bệnh nên đi khám ngay lập tức nếu Đau ngực, có thể là triệu chứng của một cơn đau tim Khó nuốt Là nôn ra máu đỏ tươi hoặc máu trông giống như bã cà phê Đại tiện phân có màu đen, có mùi hôi hoặc có máu đỏ tươi. Bệnh Barrett thực quản không lây truyền từ người mắc bệnh sang người khỏe mạnh. Các yếu tố làm tăng nguy cơ bệnh Barrett thực quản bao gồm Chứng ợ nóng mãn tính và trào ngược axit. Tuổi tác. Bệnh Barrett thực quản có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng phổ biến hơn ở người lớn tuổi. Nam giới có nhiều khả năng mắc bệnh Barrett thực quản hơn nữ giới. Người da trắng có nguy cơ mắc bệnh cao hơn những người thuộc chủng tộc khác. Thừa cân. Mỡ cơ thể quanh bụng làm tăng thêm nguy cơ mắc bệnh Barrett thực quản. Hiện tại hút thuốc lá hoặc đã từng hút thuốc lá. Hiện nay, các chuyên gia khuyến cáo các biện pháp hạn chế mắc chứng Barrett thực quản như sau Sử dụng thuốc điều trị bệnh trào ngược dạ dày thực quản và tái khám đúng lịch hẹn để có thể theo dõi được sự tiến triển của bệnh. Khi sử dụng thuốc phải có sự hướng dẫn của bác sĩ, tuyệt đối không được tự ý sử dụng. Duy trì cân nặng ở mức hợp lý. Do cân nặng chính là một trong những yếu tố gây chứng Barrett thực quản; người bệnh nên chia các bữa ăn thành nhiều bữa nhỏ để hạn chế tình trạng ợ nóng, ợ hơi. Hạn chế ăn các đồ ăn có nhiều dầu mỡ, đồ ăn chiên xào, cà phê, thuốc lá, rượu bia. Sau khi ăn không nên nằm ngay, mà đợi ít nhất 3 tiếng sau thì mới được nằm xuống, Đối với những người bệnh trào ngược dạ dày thực quản khi ngủ nên kê cao gối để hạn chế trào axit và thức ăn lên thực quản. Thường xuyên tập thể thao và đều đặn. Chế độ ăn hợp lý và bồi bổ cơ thể từ đó nâng cao sức đề kháng phòng chống bệnh tật. Các bác sĩ thường chỉ định nội soi để xác định chẩn đoán bệnh Barrett thực quản. Một nội soi gồm ống có đèn được trang bị camera đưa từ miệng xuống thực quản, từ đó hình ảnh Barrett thực quản sẽ được chiếu trên màn hình máy tính và bác sĩ sẽ thấy được các dấu hiệu thay đổi mô thực quản. Bình thường mô thực quản có màu hồng nhạt và bóng, nhưng trong bệnh Barrett thực quản, mô có màu màu đỏ và mượt. Đồng thời, bác sĩ sẽ lấy mô thực quản và đưa đi sinh thiết để xác định mức độ thay đổi của mô thực quản. Xác định mức độ thay đổi mô Bác sĩ chuyên ngành về bệnh lý học sẽ xác định mức độ loạn sản của các tế bào thực quản của người bệnh. Do rất khó để chẩn đoán chứng loạn sản ở thực quản, tốt nhất nên có hai bác sĩ chuyên ngành về bệnh lý học đọc kết quả, mô của người bệnh sẽ được phân loại như sau Không có loạn sản, nếu có Barrett thực quản nhưng không làm thay đổi mô tế bào. Loạn sản mức độ thấp, nếu các tế bào thực quản bị biến đổi thành tế bào tiền ung thư nhỏ. Loạn sản bậc cao, nếu các tế bào cho thấy thay đổi nhiều. Chứng loạn sản bậc cao được cho là bước cuối cùng trước khi các tế bào chuyển thành ung thư thực quản. Sàng lọc Barrett thực quản Đại học Hệ Tiêu hóa Hoa Kỳ American College of Gastroenterology cho biết, việc khám sàng lọc được khuyến nghị cho những người đàn ông có triệu chứng bệnh trào ngược dạ dày thực quản Gastroesophageal reflux disease - GERD ít nhất 1 tuần 1 lần mà không đáp ứng với điều trị bằng thuốc ức chế bơm proton và có ít nhất hai yếu tố nguy cơ sau Trên 50 tuổi Người da trắng Có nhiều mỡ ở bụng Là người hút thuốc hoặc đã từng hút thuốc lá Có tiền sử gia đình mắc Barrett thực quản hoặc ung thư thực quản Mặc dù nữ giới có ít khả năng mắc bệnh Barrett thực quản hơn, nhưng nếu có các triệu chứng và yếu tố nguy cơ kể trên, nữ giới vẫn nên đi khám sàng lọc tương tự như nam giới. Điều trị bệnh Barrett thực quản phụ thuộc vào mức độ tăng trưởng bất thường của tế bào tại thực quản và sức khỏe tổng thể của người bệnh. Không loạn sản. Bác sĩ có thể sử dụng các biện pháp như sau Nội soi định kỳ để theo dõi sự tiến triển các tế bào trong thực quản. Nếu sinh thiết cho thấy không có loạn sản, thì người bệnh được khuyến cáo nên đi nội soi sau 6 tháng và sau đó thì cứ sau ba năm nếu như không gì thay đổi. Điều trị bệnh trào ngược dạ dày thực quản. Thuốc và thay đổi lối sống có thể làm giảm các triệu chứng của người bệnh. Ngoài ra, người bệnh còn có lựa chọn thực hiện phẫu thuật để thắt chặt cơ thắt kiểm soát dòng chảy của axit dạ dày lên thực quản. Loạn sản mức độ thấp Đối với chứng loạn sản mức độ thấp, bác sĩ sẽ khuyên người bệnh sau 6 tháng quay lại tái khám, và các lần sau cứ từ 6 đến 12 tháng tiếp tục tái khám. Phương pháp ưu tiên để điều trị giai đoạn này bao gồm Sử dụng máy nội soi để loại bỏ các tế bào bị tổn thương. Cắt bỏ u bằng sóng cao tần Radiofrequency ablation bằng cách sử dụng nhiệt để loại bỏ mô thực quản bất thường. Biện pháp này có thể được thực hiện ngay sau khi cắt bỏ mô bằng biện pháp nội soi. Nếu viêm thực quản nặng thì ban đầu sẽ được nội soi, sau 3-4 tháng tiếp tục nội soi để điều trị giảm axit dạ dày. Loạn sản bậc cao Chứng loạn sản bậc cao thường được cho là tiền thân của ung thư thực quản. Vì vậy, bác sĩ có thể cắt bỏ nội soi hoặc cắt u bằng sóng cao tần Radiofrequency ablation. Các lựa chọn khác để điều trị bao gồm Liệu pháp quang đông Cryotherapy, sử dụng máy nội soi để áp chất lỏng hoặc khí lạnh lên các tế bào bất thường trong thực quản, sau đó tế bào này được làm ấm lên, rồi tiếp tục đông lạnh một lần nữa. Chu kỳ cứ lặp đi lặp lại như vậy để phá hủy các tế bào bất thường. Quang động liệu pháp Photodynamic therapy là sự kết hợp một dược phẩm được gọi là chất gây cảm quang photosensitizer với một loại ánh sáng thích hợp để diệt các tế bào ung thư.. Xem thêm Nguy hiểm đến từ trào ngược dạ dày thực quản Luồng trào ngược dạ dày thực quản ở trẻ em 10 bệnh lý tai mũi họng liên quan đến trào ngược dạ dày thực quản Bệnh trào ngược thực quản - Căn bệnh nguy hiểm nhưng đang bị coi thường Trào ngược dạ dày thực quản Nên ăn gì và kiêng ăn gì? Dấu hiệu trào ngược dạ dày bạn nên biết
Ung thư thực quản rất nguy hiểm, bên cạnh các phương pháp chữa trị không dùng thuốc, thuốc điều trị ung thư cũng có những đặc điểm riêng biệt và được bác sĩ sử dụng tuỳ theo mục đích cũng như các giai đoạn khác nhau. Vậy các loại thuốc điều trị ung thư thực quản phổ biến hiện nay là gì? Có những lưu ý gì khi sử dụng thuốc? Hãy cùng Bác sĩ Phan Văn Giáo tìm hiểu qua bài viết sau. Nội dung bài viết Tổng quan về các loại thuốc điều trị ung thư thực quản1. Thuốc hóa trị ung thư thực quản2. Thuốc nhắm trúng tại đích3. Các thuốc sử dụng trong liệu pháp miễn dịch4. Thuốc dùng trong liệu pháp quang độngLưu ý cho người bệnh trong việc điều trị ung thư thực quản bằng thuốc Tổng quan về các loại thuốc điều trị ung thư thực quản Ung thư thực quản là một loại ung thư phổ biến trong hệ tiêu hóa và có nhiều phương pháp điều trị khác nhau. Tùy vào trường hợp mà bệnh nhân được chỉ định phẩu thuật hay xạ trị, bóc tách dưới niêm mạc nội soi ESD hay cắt bỏ niêm mạc nội soi EMR hay liệu pháp laser nội soi. Bên cạnh đó, việc điều trị bằng thuốc được nhiều người quan tâm. Các loại thuốc điều trị ung thư thực quản được phân loại và sử dụng tùy thuộc vào giai đoạn của bệnh và tình trạng sức khỏe của bệnh nhân. Dưới đây là một số loại thuốc phổ biến được sử dụng trong điều trị ung thư thực quản hiện nay. 1. Thuốc hóa trị ung thư thực quản Cách thức hoạt động và một số thuốc trong hoá trị ung thư Hóa trị liên quan đến việc sử dụng thuốc để tấn công các tế bào ung thư. Hóa trị có thể được sử dụng trước hoặc sau khi phẫu thuật, đôi khi hoá trị có thể đi kèm với việc sử dụng xạ trị. Tuỳ thuộc vào từng loại thuốc sẽ hoạt động hiệu quả nhất trong các giai đoạn cụ thể của chu kỳ tế bào, trong khi những loại khác tiêu diệt tế bào ung thư ở tất cả các giai đoạn. Một số thuốc được sử dụng như2 1. Nhóm các chất alkyl hóa Các tác nhân kiềm hóa làm hỏng DNA của tế bào để ngăn chặn các tế bào ung thư phân chia như Cisplatin. 2. Nhóm các chất chống chuyển hóa Các chất chống chuyển hóa ngăn chặn các tế bào ung thư tạo ra vật liệu di truyền mà chúng cần để tạo ra các tế bào mới, các loại thuốc được sử dụng như 5-fluorouracil, Capecitabine. 3. Nhóm kháng sinh chống ung thư bao gồm cả anthracycline Kháng sinh chống khối u ngăn DNA bên trong tế bào ung thư tự sao chép. Đôi khi, chúng làm hỏng DNA của tế bào, thuốc được sử dụng trong ung thư thực quản là Epirubicin. 4. Nhóm chất ức chế phân bào alkaloid thực vật Những loại thuốc này hoạt động bằng cách can thiệp vào khả năng phân chia và tạo tế bào mới của tế bào ung thư, hay còn gọi là quá trình nguyên phân, Docetaxel là thuốc hoạt động theo cơ chế này. Lưu ý Bạn có thể nhận được một loại thuốc hóa trị hoặc kết hợp các loại thuốc hay còn gọi là hóa trị liệu kết hợp. Sử dụng nhiều loại thuốc hóa trị có thể làm tăng hiệu quả điều trị, vì các loại thuốc khác nhau nhắm mục tiêu các tế bào ung thư khác nhau. Ngoài ra, sử dụng thuốc kết hợp có thể làm giảm khả năng cơ thể bạn trở nên kháng một loại thuốc cụ thể. Bác sĩ sẽ đánh giá tình trạng bệnh của bạn để đưa ra thuốc sử dụng hiệu quả Tác dụng phụ của các thuốc hoá trị Tác dụng phụ do hoá trị đa số phát sinh vì sử dụng thuốc, nguyên nhân có thể bởi vì thuốc hóa trị cũng giết chết các tế bào khỏe mạnh trong cơ thể. Tuy nhiên, tác dụng phụ của bạn sẽ phụ thuộc vào loại thuốc mà bác sĩ sử dụng. Những tác dụng phụ này có thể bao gồm2 Mệt mỏi. Tiêu chảy. Táo bón. Rụng tóc. Lở miệng. Ăn mất ngon. Buồn nôn và ói mửa. Nguy có thiếu máu và giảm bạch cầu trung tính. 2. Thuốc nhắm trúng tại đích Cách thức hoạt động và một số thuốc trong liệu pháp miễn dịch3 Một số bệnh ung thư thực quản có quá nhiều protein HER2 trên bề mặt tế bào, đây là một loại protein có thể giúp tế bào ung thư phát triển. Các thuốc được sử dụng để nhắm mục tiêu vào protein HER2 ngăn sự nhân lên của các tế bào ung thư. Các loại thuốc có thể sử dụng điều trị ung thư thực quản là 1. Trastuzumab Trastuzumab là một kháng thể đơn dòng, đây là protein nhân tạo của hệ thống miễn dịch, nhắm tới mục tiêu HER2. Thuốc này không được dùng cùng với một số loại thuốc hóa trị như epirubicin hoặc doxorubicin, vì nó có thể làm tăng thêm nguy cơ tổn thương tim. 2. Fam-trastuzumab deruxtecan Đây là một liên hợp giữa một kháng thể đơn dòng liên kết với một loại thuốc hóa trị. Trong trường hợp này, kháng thể kháng HER2 hoạt động giống như tín hiệu dẫn đường bằng cách gắn vào protein HER2 trên tế bào ung thư, đưa hóa trị trực tiếp đến tế bào ung thư. 3. Ramucirumab Để ung thư phát triển và lan rộng, chúng cần tạo ra các mạch máu mới để các khối u nhận được máu và chất dinh dưỡng. Ramucirumab là một kháng thể đơn dòng ngăn chặn quá trình tạo mạch máu mới. Điều này có thể giúp làm chậm hoặc ngăn chặn sự phát triển của ung thư. Ramucirumab có thể được sử dụng một mình hoặc kết hợp với thuốc hóa trị paclitaxel. 4. Entrectinib và larotrectinib Đây là các loại thuốc nhắm vào các tế bào có sự kết hợp gen bất thường gây ung thư. Entrectinib và larotrectinib là một trong những loại thuốc này có thể được sử dụng để điều trị ung thư thực quản nếu ung thư không thể sử dụng phẫu thuật hoặc đã lan sang các bộ phận khác của cơ thể. Tác dụng phụ của các thuốc nhắm trúng mục tiêu3 Tuỳ theo từng loại thuốc được sử dụng, chúng có thể gây ra các ảnh hưởng khác nhau trên cơ thể 1. Trastuzumab Có thể bị sốt và ớn lạnh, ho và nhức đầu khi dùng thuốc này. Trastuzumab đôi khi cũng có thể gây tổn thương tim, dẫn đến cơ tim trở nên yếu. Vì vậy, Trước khi bắt đầu điều trị, bác sĩ có thể kiểm tra chức năng tim của bạn bằng siêu âm tim hoặc quét MUGA đây là một thử nghiệm để đánh giá chức năng tim. 2. Fam-trastuzumab deruxtecan Có thể làm giảm số lượng tế bào máu, làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và chảy máu. Ngoài ra bạn cũng có thể nôn, tiêu chảy hoặc táo bón, chán ăn, sốt, cảm thấy mệt mỏi và rụng tóc. Đặc biệt là thuốc này có thể gây ra bệnh phổi nghiêm trọng, thậm chí có thể đe dọa đến tính mạng. Vì vậy, hãy báo cho bác sĩ biết ngay nếu bạn có các triệu chứng như ho, thở khò khè, khó thở hoặc sốt. 3. Ramucirumab Các tác dụng phụ phổ biến nhất của thuốc này là huyết áp cao, sưng tay hoặc chân và mệt mỏi. Bạn cũng hiếm khi có thể gặp các tác dụng phụ nghiêm trọng hơn như cục máu đông, chảy máu nghiêm trọng, thủng ruột hay dạ dày, và các vấn đề về chữa lành vết thương. 4. Entrectinib và larotrectinib Khi sử dụng thuốc này, Bạn có thể cảm thấy mệt mỏi, buồn nôn, nôn, chóng mặt, ho, tiêu chảy và táo bón. Các tác dụng phụ ít phổ biến hơn bao có thể là các vấn đề về gan hoặc lú lẫn. 3. Các thuốc sử dụng trong liệu pháp miễn dịch Cách thức hoạt động và một số thuốc trong liệu pháp miễn dịch4 Phương pháp điều trị này bao gồm các chất ức chế điểm kiểm soát miễn dịch. Những loại thuốc này giúp khôi phục phản ứng của hệ thống miễn dịch đối với các tế bào ung thư thực quản, bao gồm các nhóm thuốc như 1. Chất ức chế PD-1 Như thuốc pembrolizumab và nivolumab là những loại thuốc nhắm vào PD-1, Protein PD-1 thường giúp giữ cho các tế bào T tấn công các tế bào khác trong cơ thể. Bằng cách ngăn chặn PD-1, những loại thuốc này tăng cường phản ứng miễn dịch chống lại các tế bào ung thư. Điều này có thể thu nhỏ một số khối u hoặc làm chậm sự phát triển của chúng. 2. Chất ức chế CTLA-4 Ipilimumab là một loại thuốc khác giúp tăng cường phản ứng miễn dịch, tương tự như pembrolizumab nhưng nó có mục tiêu là chặn CTLA-4. CTLA-4 là một loại protein khác trên tế bào T. Ipilimumab có thể được sử dụng cùng với nivolumab như là lựa chọn đầu tiên để điều trị ung thư tế bào vảy tiến triển của thực quản, khi không thể cắt bỏ bằng phẫu thuật hoặc đã lan sang các bộ phận khác của cơ thể. Ipilimumab là thuốc sử dụng trong liệu pháp miễn dịch điều trị ung thư thực quản Tác dụng phụ của các thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch4 Các tác dụng phụ thường gặp như Mệt mỏi. Ho, sốt. Buồn nôn. Ngứa, phát ban da. Chán ăn. Táo bón, tiêu chảy. Đau cơ hoặc khớp. Các tác dụng phụ nghiêm trọng khác ít xảy ra hơn, có thể là Phản ứng khi truyền như sốt, ớn lạnh, đỏ bừng mặt, phát ban, ngứa da, cảm thấy chóng mặt, thở khò khè và khó thở. Phản ứng tự miễn dịch Những loại thuốc đôi khi có thể làm hệ thống miễn dịch bắt đầu tấn công các bộ phận khác của cơ thể, nó gây ra các vấn đề nghiêm trọng hoặc thậm chí đe dọa tính mạng ở phổi, ruột, gan, tuyến sản xuất hormone, thận, da hoặc các cơ quan khác. Vì thế, nếu các tác dụng phụ nghiêm trọng xảy ra, bạn hãy thông báo cho bác sĩ của bạn để có thể được hỗ trợ nhanh chóng và kịp thời. 4. Thuốc dùng trong liệu pháp quang động Liệu pháp quang động là việc tiêm vào khối u một loại thuốc cảm quang để tấn công khối u khi tiếp xúc với ánh sáng. Khi các tế bào đã hấp thụ chất cảm quang tiếp xúc với một bước sóng ánh sáng cụ thể, chất cảm quang sẽ tạo ra một dạng oxy được gọi là gốc oxy, giết chết các tế bào ung Tác dụng phụ của liệu pháp quang động5 Liệu pháp quang động cũng có thể làm hỏng các mạch máu trong khối u, khiến khối u không nhận được máu cần thiết để tiếp tục phát triển. Hơn thế, nó có thể kích hoạt hệ thống miễn dịch tấn công các tế bào khối u. Tuy nhiên khi dùng liệu pháp quang động có thể gây hại cho các tế bào bình thường xung quanh gây bỏng, sưng, đau và sẹo ở vùng điều trị. Ngoài ra các tác dụng phụ khác có thể xảy ra, bao gồm Ho. Khó nuốt. Thở đau. Hụt hơi. Các vấn đề về da, chẳng hạn như đỏ, châm chích, sưng hoặc ngứa. Lưu ý rằng một loại chất cảm quang gọi là porfimer natri làm cho da và mắt nhạy cảm với ánh sáng trong khoảng 6 tuần. Trong thời gian này, bệnh nhân nên tránh ánh nắng trực tiếp và ánh sáng chói trong nhà. Bệnh nhân nên tránh ánh nắng trực tiếp trong thời gian điều trị bằng quang động Lưu ý cho người bệnh trong việc điều trị ung thư thực quản bằng thuốc Bên cạnh các vấn đề gây bởi tác dụng phụ của thuốc, bạn có thể gặp một số vấn đề gây ra bởi ung thư thực quản. Do đó có một số lưu ý trong quá trình điều trị bệnh ung thư thực quản như sau6 Đến ngay cơ sở y tế gần nhất Khi bắt đầu điều trị ung thư thực quản với thuốc, bệnh nhân có thể gặp một số các tác dụng phụ của thuốc. Hãy tuân thủ điều trị và có tâm thái lạc quan trong quá trình điều trị. Hơn vậy khi có bất kỳ phản ứng nghiêm trọng nào xảy ra, bạn nên liên hệ tới cơ quan y tế gần nhất để được hỗ trợ. Nếu bạn bị đau, hãy báo ngay cho nhân viên y tế để họ có thể giúp bạn kiểm soát cơn đau nhanh chóng và hiệu quả. Bổ sung dinh dưỡng Ung thư hoặc các phương pháp điều trị có thể gây ra các vấn đề khó nuốt hoặc các ảnh hưởng khác như buồn nôn, không muốn ăn. Bạn có thể bị sụt cân hoặc có vấn đề về vị giác trong quá trình điều trị. Trong trường hợp này bạn nên ăn bất cứ thứ gì hấp dẫn bạn. Việc chia nhỏ bữa ăn như là ăn những phần nhỏ cứ sau 2 đến 3 giờ sẽ mang lại lợi ích cho bạn hơn. Hơn thế nữa, bác sĩ và chuyên gia dinh dưỡng có thể tư vấn cho bạn các thông tin về nhu cầu dinh dưỡng. Sử dụng các chất bổ sung dinh dưỡng và các lời khuyên khác để giúp bạn duy trì cân nặng và lượng dinh dưỡng nạp vào. Hy vọng đã cung cấp cho bạn thêm những thông tin về các loại thuốc điều trị ung thư thực quản phổ biến hiện nay. Bên cạnh đó là các lưu ý khi sử dụng thuốc trong điều trị ung thư thực quản, để có thể đạt được hiệu quả cao trong quá trình điều trị.
Thực quản là một trong số các cơ quan của hệ tiêu hóa. Có chức năng chứa và vận chuyển thức ăn và các chất lỏng đi từ họng xuống dạ dày. Trong quá trình vận chuyển, thức ăn sẽ được các tuyến trong thực quản tiết ra chất nhầy giúp làm mềm, khiến các thức ăn được dễ dàng đi xuống dạ dày hơn. Tuy nhiên, khi có một tác nhân nào đó tác động vào các tế bào lót hay còn gọi là tế bào vảy trong thực quản khiến chúng bị thay đổi bất thường. Sau đó những tế bào này chuyển thành các tế bào dạng cột, được gọi là bệnh Barrett thực quản. [elementor-template id="263870"] Do nguyên nhân cốt yếu gây nên căn bệnh này là xuất phát từ việc tế bào lót thực quản thường xuyên phải tiếp xúc với những dịch vị acid trong dạ dày. Do đó việc cần làm trước tiên là phải ngăn chặn tình trạng trào ngược. Nhằm bảo vệ các tế bào lót thực quản và ức chế quá trình phát triển của bệnh. Sử dụng các loại thuốc Tây chống trào ngược được xem là cách điều trị mang lại hiệu quả nhanh chóng và hiệu quả nhất. Những loại thuốc thường được sử dụng bao gồm Nhóm thuốc ức chế H2 – antagonists, thuốc làm giảm nồng độ acid trong dạ dày. Tình trạng dư thừa acid trong dạ dày chính là nguyên nhân gây ra các bệnh lý về dạ dày như đau dạ dày, viêm loét dạ dày,… và cũng chính nó là yếu làm cho bệnh trào ngược xuất hiện và ngày càng nặng. Vì thế sử dụng những loại thuốc làm giảm dịch vị acid sẽ làm cho chứng trào ngược không còn xảy ra. Các loại thuốc thường được sử dụng là Cimetidine, Ranitidine. Các loại thuốc có tác dụng ức chế bơm proton. Nhón thuốc ức chế bơm proton có tác dụng ngăn chặn quá trình tiết dịch vị acid trong dạ dày, làm giảm chứng trào ngược dạ dày khiến cho người bệnh cảm thấy dễ chịu hơn, từ đó bệnh Barrett thực quản cũng nhanh chóng được chữa khỏi. Những loại thuốc thường được dùng thuộc nhóm thuốc này là Lansoprazole, Omeprazole. Hình ảnh mô phỏng Barrett thực quản. Thuốc cải thiện hệ tiêu hóa điều trị barrett thực quản Những loại thuốc có khả năng cải thiện và kích thích hoạt động của hệ tiêu hóa như thuốc Metoclopramide cũng sẽ được chỉ định cho những người bị Barrett thực quản. Chúng sẽ giúp cho quá trình tiêu hóa thức ăn được thuận lợi hơn, nhanh chóng hơn. Giảm sự tích tụ thức ăn trong dạ dày từ đó ngăn được nguy cơ bị trào ngược. Các loại thuốc tây được sử dụng để điều trị chứng trào ngược thực quản tuy mang lại hiệu quả chữa bệnh tốt. Giúp người bệnh thoát khỏi các triệu chứng bệnh một cách nhanh chóng. Tuy nhiên, một trong những nhược điểm thường gặp ở hầu hết các loại thuốc Tây là chúng thường gây ra tác dụng phụ. Những tác dụng phụ này gây không ít phiền toái cho người bệnh. Thậm chí là gây ra nguy hiểm đến tính mạng. Do đó, trong khi sử dụng bạn cần đặc biệt chú ý. Thói quen sinh hoạt phù hợp Những thói quen sinh hoạt dưới đây có thể giúp bạn hạn chế diễn tiến bệnh Barrett thực quản Tái khám đúng lịch hẹn để được theo dõi diễn tiến các triệu chứng cũng như tình trạng sức khỏe của bạn; Nghe theo hướng dẫn của bác sĩ, không được tự ý uống thuốc không được chỉ định hoặc tự ý bỏ thuốc trong toa được kê cho bạn; Cách duy nhất để chẩn đoán bệnh là nội soi thực quản sau đó tiến hành sinh thiết mô. Bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa sẽ tiến hành việc này; Nâng đầu giường lên cao khi ngủ để hạn chế chứng trào ngược axit xuất hiện vào ban đêm Cần phải có chế độ ăn uống dinh dưỡng, uống thuốc theo đúng chỉ định của bác sĩ. Ngoài ra bạn cũng nên nhờ đến sự tư vấn của bác sĩ nếu bạn có các triệu chứng sau Ợ nóng; Thức ăn nghẹn ở cổ họng; Ói mửa; Khó nuốt và sụt cân. Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi nào, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để được tư vấn phương pháp hỗ trợ điều trị tốt nhất. Xem thêm bài viết 7 Nguyên nhân chính của bệnh Barrett thực quản Đừng quên ghé mỗi ngày để cập nhật nhiều thông tin tổng hợp nhé!
Barrett thực quản thường được chẩn đoán ở những người có bệnh trào ngược dạ dày lâu dài GERD - trào ngược mãn tính acid từ dạ dày vào thực quản vùng thấp. Biên tập viên Trần Tiến Phong Đánh giá Trần Trà My, Trần Phương Phương Định nghĩa Barrett thực quản là một tình trạng mà trong đó màu sắc và thành phần của các tế bào lót thay đổi ở vùng thấp thực quản, thường là do tiếp xúc lặp đi lặp lại với acid dạ dày. Barrett thực quản thường được chẩn đoán ở những người có bệnh trào ngược dạ dày lâu dài GERD - trào ngược mãn tính acid từ dạ dày vào thực quản vùng thấp. Chỉ có một tỷ lệ phần trăm nhỏ của những người bị GERD sẽ phát triển thành thực quản Barrett. Chẩn đoán liên quan có thể có của Barrett thực quản là ung thư, bởi vì nó làm tăng nguy cơ phát triển ung thư thực quản. Mặc dù nguy cơ ung thư thực quản là nhỏ, theo dõi và điều trị Barrett thực quản tập trung vào kiểm tra định kỳ để tìm các tế bào tiền ung thư thực quản. Nếu các tế bào tiền ung thư được phát hiện, có thể được điều trị để ngăn chặn ung thư thực quản. Các triệu chứng Barrett thực quản, các dấu hiệu và triệu chứng thường liên quan đến trào ngược acid và có thể bao gồm Thường xuyên ợ nóng. Khó nuốt thức ăn. Đau ngực. Phân đen, phân nát. Nôn máu. Nhiều người bị Barrett thực quản không có dấu hiệu hay triệu chứng. Nếu đã gặp rắc rối dài hạn với chứng ợ nóng và trào ngược axit, thảo luận với bác sĩ và hỏi về nguy cơ Barrett thực quản. Tìm kiếm sự chăm sóc y tế ngay lập tức nếu Có đau ngực. Gặp khó khăn khi nuốt. Nôn máu đỏ hay máu giống như bã cà phê. Phân quá đen, hắc ín hoặc phân có máu. Nguyên nhân Nguyên nhân chính xác của Barrett thực quản là không biết. Hầu hết người Barrett thực quản đã có GERD từ lâu. Nghĩ rằng nguyên nhân GERD gây thiệt hại cho thực quản khi thực quản cố gắng để tự chữa bệnh, các tế bào có thể thay đổi. Tuy nhiên, một số người được chẩn đoán Barrett thực quản đã không bao giờ có dấu hiệu ợ nóng hay acid trào ngược. Không phải là nguyên nhân rõ ràng cho Barrett thực quản trong những trường hợp này. Yếu tố nguy cơ Những yếu tố làm tăng nguy cơ của thực quản Barrett bao gồm Ợ nóng mạn tính. Có các triệu chứng của bệnh trào ngược dạ dày GERD trong hơn 10 năm có thể làm tăng nguy cơ Barrett thực quản. Acid dạ dày tràn vào thực quản nếu có GERD có thể làm hỏng các mô thực quản, gây ra những thay đổi - Barrett thực quản. Giới tính. Đàn ông có nhiều khả năng phát triển Barrett thực quản hơn phụ nữ. Da trắng hoặc gốc Tây Ban Nha. Người da trắng và người gốc Tây Ban Nha có nguy cơ mắc bệnh lớn hơn. Người lớn tuổi. Barrett thực quản phổ biến hơn ở người lớn tuổi, nhưng nó có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi. Các biến chứng Những người bị Barrett thực quản có tăng nguy cơ ung thư thực quản. Tuy nhiên, rủi ro là nhỏ, đặc biệt là ở những người có tiền sử cho thấy không có thay đổi tiền ung thư loạn sản trong tế bào thực quản. Đa số những người có Barrett thực quản không phát triển bệnh ung thư thực quản. Nghiên cứu những người có Barrett thực quản gần nhất cho thấy nguy cơ ung thư thực quản báo cáo trước kia cao hơn nhiều thực tế. Điều này gây ra lo lắng không cần thiết. Nếu đang lo lắng về nguy cơ ung thư thực quản, hãy yêu cầu bác sĩ giải thích cơ hội phát triển bệnh. Cũng yêu cầu những gì có thể làm để giảm nguy cơ. Các xét nghiệm và chẩn đoán Bác sĩ xác định thực quản Barrett bằng cách sử dụng một thủ tục gọi là nội soi tiêu hóa trên Kiểm tra thực quản. Ống nội soi xuống cổ họng, ống mang máy ảnh nhỏ cho phép bác sĩ kiểm tra thực quản. Bác sĩ sẽ biết dấu hiệu cho thấy các mô thực quản đang thay đổi. Một người với Barrett thực quản sẽ có các mô khác từ mô thực quản bình thường. Mô tế bào. Bác sĩ có thể qua các công cụ đặc biệt thông qua nội soi để lấy mẫu mô nhỏ. Các mẫu được kiểm tra trong phòng thí nghiệm để xác định những loại thay đổi đang diễn ra và làm thế nào cải thiện các thay đổi này. Bác sĩ chuyên kiểm tra các mô trong một phòng thí nghiệm sẽ kiểm tra mẫu mô thực quản dưới kính hiển vi. Bệnh lý học sẽ xác định mức độ thay đổi loạn sản trong tế bào. Phân loại loạn sản bao gồm Không có loạn sản. Nếu không có thay đổi trong các tế bào, nghiên cứu bệnh học xác định không có loạn sản. Loạn sản lượng thấp. Các tế bào loạn sản lượng thấp có thể cho thấy dấu hiệu thay đổi nhỏ. Loạn sản cao. Các tế bào với loạn sản cao cho thấy thay đổi nhiều. Loạn sản cao được cho là bước cuối cùng trước khi các tế bào thay đổi thành ung thư thực quản. Loại loạn sản phát hiện trong mô thực quản sẽ xác định lựa chọn điều trị. Phương pháp điều trị và thuốc Lựa chọn điều trị cho Barrett thực quản phụ thuộc vào các loại của những thay đổi trong các tế bào thực quản, sức khỏe tổng thể và sở thích của bản thân. Điều trị cho những người không có loạn sản hoặc loạn sản cấp thấp Nếu sinh thiết cho thấy các tế bào không có loạn sản hoặc loạn sản tế bào thấp, bác sĩ có thể đề nghị Định kỳ nội soi để theo dõi các tế bào trong thực quản. Kỳ nội soi sẽ phụ thuộc vào tình hình. Thông thường, nếu sinh thiết cho thấy không có loạn sản, sẽ theo dõi nội soi một năm sau đó. Nếu bác sĩ lại phát hiện không có loạn sản, có thể có các kỳ thi nội soi mỗi ba năm. Nếu loạn sản lượng thấp được phát hiện, bác sĩ có thể khuyên nên điều trị GERD và nội soi tiếp trong sáu tháng. Đôi khi nội soi lặp đi lặp lại, không có bằng chứng về Barrett thực quản. Điều này có thể không có nghĩa là các nguy cơ đã đi xa. Phần bị ảnh hưởng của thực quản có thể rất nhỏ, và nó có thể đã bị sót trong quá trình nội soi này. Vì lý do này, bác sĩ vẫn sẽ khuyên nên theo dõi bởi các kỳ nội soi. Tiếp tục điều trị GERD. Nếu vẫn còn phải vật lộn với chứng ợ nóng và acid trào ngược mãn tính, bác sĩ sẽ làm việc để tìm thuốc giúp kiểm soát các dấu hiệu và triệu chứng. Phẫu thuật để thắt các cơ thắt kiểm soát dòng chảy ngược acid dạ dày có thể là một lựa chọn để điều trị GERD. Thủ thuật này được gọi là Nissen fundoplication. Điều trị acid trào ngược có thể làm giảm các dấu hiệu và triệu chứng, nhưng nó không là điều trị cơ bản Barrett thực quản. Điều trị cho những người bị loạn sản cao Loạn sản cao được cho là một tiền thân của ung thư thực quản. Vì lý do này, các bác sĩ khuyên nên điều trị xâm nhập nhiều hơn, chẳng hạn như Phẫu thuật để loại bỏ một phần thực quản esophagectomy. Bác sĩ phẫu thuật loại bỏ hầu hết phần thực quản và dạ dày và nối phần còn lại. Phẫu thuật mang nguy cơ biến chứng quan trọng, chẳng hạn như chảy máu, nhiễm trùng và bị rò khu vực nối thực quản và dạ dày. Khi phẫu thuật cắt thực quản được thực hiện bởi bác sĩ phẫu thuật giàu kinh nghiệm, sẽ giảm nguy cơ biến chứng. Tuy nhiên, vì những biến chứng tiềm năng của hoạt động này, phương pháp trị liệu khác thường được ưa thích hơn phẫu thuật. Một lợi thế để phẫu thuật là nó làm giảm sự cần thiết định kỳ nội soi trong tương lai. Loại bỏ các tế bào bị hư hỏng bằng nội soi. Loại bỏ các khu vực tế bào bị hư hỏng bằng cách sử dụng nội soi. Bác sĩ hướng nội soi xuống cổ họng và vào thực quản. Các công cụ phẫu thuật đặc biệt được truyền qua ống. Cho phép bác sĩ cắt bỏ lớp bề ngoài của thực quản và loại bỏ các tế bào bị hư hỏng. Nội soi màng nhầy giải phẩu mang một nguy cơ biến chứng, chẳng hạn như chảy máu, rách thực quản và thu hẹp của thực quản. Sử dụng nhiệt để loại bỏ mô thực quản bất thường. Bao gồm việc chèn bóng chứa điện cực vào trong thực quản. Bóng phát ra một loạt năng lượng đốt cháy mô thực quản bị hư hại. Phá hủy tế bào bị hư hỏng bằng quang. Trước khi thủ tục liệu pháp quang này PDT, một loại thuốc đặc biệt thông qua tĩnh mạch ở cánh tay được tiêm vào. Thuốc làm cho các tế bào nhất định, bao gồm cả các tế bào bị hư hại trong thực quản nhạy cảm với ánh sáng. Trong PDT, bác sĩ sử dụng nội soi để hướng ánh sáng đặc biệt xuống cổ họng và vào thực quản. Ánh sáng phản ứng với thuốc trong các tế bào và gây ra chết các tế bào bị hư hại. PDT làm cho nhạy cảm với ánh sáng mặt trời và cần tránh ánh sáng mặt trời sau khi các thủ tục. Các biến chứng của PDT có thể bao gồm thu hẹp thực quản, đau ngực, khó nuốt và ói mửa. Nếu trải qua điều trị không phẫu thuật để loại bỏ thực quản, cơ hội Barrett thực quản có thể tái diễn. Vì lý do này, bác sĩ có thể khuyên nên tiếp tục làm giảm acid bằng thuốc và kiểm tra nội soi định kỳ. Phong cách sống và biện pháp khắc phục Hầu hết mọi người chẩn đoán mắc chứng ợ nóng thường xuyên trong Barrett thực quản và acid trào ngược. Thuốc men có thể kiểm soát các dấu hiệu và triệu chứng, nhưng thay đổi cuộc sống hàng ngày cũng có thể giúp đỡ. Hãy xem xét cố gắng để Duy trì trọng lượng khỏe mạnh. Nếu trọng lượng được khỏe mạnh, làm việc để duy trì trọng lượng. Nếu đang thừa cân hoặc béo phì, hãy hỏi bác sĩ về những cách lành mạnh để giảm cân. Thừa cân gây áp lực lên bụng, thúc đẩy dạ dày và gây ra acid vào thực quản. Ăn nhẹ hơn. Ba bữa ăn một ngày, với các món ăn nhẹ nhỏ ở giữa, sẽ giúp ngừng ăn quá nhiều. Liên tục ăn quá nhiều dẫn đến thừa cân, trầm trọng thêm chứng ợ nóng. Tránh quần áo chặt. Quần áo phù hợp, chặt quanh eo sẽ gây áp lực lên bụng, tăng nặng trào ngược. Loại bỏ chất gây ợ nóng. Thường gây nên chẳng hạn như chất béo hoặc các loại thực phẩm rán, rượu, chocolate, bạc hà, tỏi, hành tây, caffeine và nicotine có thể làm cho chứng ợ nóng tệ hơn. Không nằm xuống sau khi ăn. Chờ ít nhất ba giờ sau khi ăn để nằm xuống hoặc đi ngủ. Nâng cao đầu giường. Đặt khối gỗ dưới giường để nâng cao đầu. Mục đích cho độ cao 10 - 15 cm. Không hút thuốc. Hút thuốc có thể làm tăng acid dạ dày. Nếu hút thuốc, hãy hỏi bác sĩ về các chiến lược dừng lại. Đối phó và hỗ trợ Nếu đã được chẩn đoán Barrett thực quản, có thể lo lắng về nguy cơ ung thư thực quản. Có thể cảm thấy lo âu và lo lắng với mỗi dấu hiệu hoặc triệu chứng. Với thời gian, sẽ khám phá ra cách đối phó với chẩn đoán Barrett thực quản. Cho đến lúc đó, hãy xem xét cố gắng để Tái khám đầy đủ theo lịch. Bác sĩ có thể khuyên nên có các kỳ nội soi để theo dõi tình trạng. Trước mỗi kỳ, có thể lo lắng về việc liệu Barrett thực quản đã trở nên tồi tệ. Đừng để điều này ngăn tái khám. Thay vào đó, hãy thử các hoạt động thư giãn, chẳng hạn như tập thể dục, nghe nhạc và viết nhật ký để diễn tả cảm xúc. Hãy lựa chọn lối sống lành mạnh. Giữ cơ thể khỏe mạnh bằng cách làm cho sự lựa chọn lối sống lành mạnh mỗi ngày. Ví dụ, chọn một chế độ ăn uống đầy đủ các loại trái cây, rau và ngũ cốc. Duy trì trọng lượng khỏe mạnh. Tập thể dục hầu hết các ngày trong tuần. Ngủ đủ để đánh thức cảm giác nghỉ ngơi. Thực hiện thay đổi lành mạnh làm tăng cơ hội được khỏe mạnh. Hãy hỏi bác sĩ các triệu chứng. Hãy hỏi bác sĩ các dấu hiệu và triệu chứng để tái khám.
Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Trần Ngọc Hải - Bác sĩ Nội ung bướu - Khoa Nội ung bướu - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City. Barrett thực quản là một bệnh lý của hệ tiêu hóa xảy ra khi các tế bào ở lớp lót trong thực quản trở nên bất thường, nguy cơ dẫn đến ung thư thực quản. Khi mắc bệnh Barrett thực quản, các tế bào trong thực quản ống nối từ miệng đến dạ dày được thay thế bằng các tế bào tương tự như niêm mạc này thường được chẩn đoán ở những người liên tục mắc chứng trào ngược dạ dày - thực quản GERD. Tuy nhiên, chỉ một tỷ lệ nhỏ những bệnh nhân GERD sẽ mắc Barrett thực thực quản có liên quan đến việc tăng nguy cơ tiến triển thành ung thư thực quản. Mặc dù rủi ro này là tương đối nhỏ, nhưng bệnh nhân vẫn cần được kiểm tra thường xuyên sự xuất hiện của các tế bào tiền ung thư. Nếu các tế bào tiền ung thư được phát hiện sớm thì có thể được điều trị kịp thời để ngăn ngừa ung thư thực quản. Barrett thực quản làm gia tăng nguy cơ bị ung thư thực quản 2. Triệu chứng Barrett thực quản Sự thay đổi của các tế bào trong lớp lót thực quản thường không gây ra triệu chứng. Thay vào đó, triệu chứng Barrett thực quản mà bệnh nhân gặp phải chủ yếu bắt nguồn từ tình trạng trào ngược dạ dày - thực quản, bao gồmChứng ợ nóng, ợ chua thường xuyên;Khó nuốt thức ăn;Đau tức ngực ít gặp.Nhiều người bị Barrett thực quản không biểu hiện bất kỳ triệu chứng nào. 3. Khi nào đi khám bác sĩ? Nếu bệnh nhân nhận thấy khó chịu với chứng ợ nóng và trào ngược axit dạ dày trong hơn 5 năm, hãy hỏi bác sĩ về nguy cơ mắc bệnh Barrett thực đến gặp bác sĩ càng sớm càng tốt nếu nhận thấy triệu chứngĐau tức ngực, có thể là triệu chứng của cơn nhồi máu cơ tim;Khó nuốt;Nôn ra máu hoặc chất lỏng trông giống như bã cà phê;Đi ngoài phân đen hoặc có lẫn máu. 4. Nguyên nhân gây ra Barrett thực quản Nguyên nhân chính xác của Barrett thực quản chưa được biết đến. Tuy nhiên, thống kê cho thấy, hầu hết những người mắc bệnh đều có triệu chứng trào ngược axit dạ dày mãn trào từ dạ dày ngược vào thực quản, dẫn đến tổn thương mô thực quản. Khi thực quản cố gắng tự chữa lành vết thương, các tế bào tại lớp lót có thể đã thay đổi tính chất và cấu trúc của nó và gây ra triệu chứng Barrett thực dù vậy, một số bệnh nhân được chẩn đoán mắc chứng Barrett thực quản nhưng lại không bị ợ nóng hoặc trào ngược axit. 5. Các yếu tố nguy cơ Các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh Barrett thực quản bao gồmChứng ợ nóng mãn tính và trào ngược axit Bệnh nhân GERD không thuyên giảm khi dùng thuốc hoặc phải dùng thuốc thường xuyên sẽ có nguy cơ cao mắc Barrett thực quản;Tuổi cao Barrett thực quản có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng thường phổ biến hơn ở người lớn tuổi;Giới tính nam Thống kê cho thấy nam giới có nhiều khả năng mắc bệnh hơn so với nữ;Là người da trắng Những người da trắng có nguy cơ mắc bệnh cao hơn những người thuộc chủng tộc khác;Thừa cân Mỡ thừa quanh bụng làm tăng thêm nguy cơ mắc bệnh;Có thói quen hút thuốc lá. Thường xuyên ợ nóng và bị trào ngược axit dạ dày - thực quản có nguy cơ cao mắc Barret thực quản 6. Biến chứng của Barrett thực quản Những bệnh nhân Barrett thực quản có nguy cơ mắc ung thư thực quản cao hơn so với người thường. Tuy nhiên, nguy cơ nói chung vẫn là tỉ lệ thấp, ngay cả ở những người đã phát hiện tế bào tiền ung thư trong thực quản của họ. 7. Chẩn đoán bệnh Phương pháp chẩn đoán Nội soi là phương pháp thường được sử dụng để xác định bệnh nhân có bị Barrett thực quản ống nhỏ gắn với một camera chiếu sáng được đưa qua cổ họng của người bệnh để kiểm tra các dấu hiệu và triệu chứng Barrett thực quản. Mô thực quản bình thường trông nhạt và bóng loáng. Trong khi đó, bệnh nhân bị Barrett thực quản thì phần mô tại cơ quan này có màu đỏ ra, bác sĩ sẽ lấy ra một phần mô sinh thiết để kiểm tra và xác định mức độ thay đổi. Xác định mức độ thay đổi của mô Bác sĩ thực hiện xét nghiệm mô trong phòng thí nghiệm nghiên cứu bệnh học xác định mức độ loạn sản trong mẫu tế bào thực quản của bệnh nhân. Việc chẩn đoán loạn sản ở thực quản thường gặp nhiều khó khăn, do đó nên có hai bác sĩ, trong đó ít nhất một người chuyên về bệnh lý tiêu hóa, đồng ý với kết luận chẩn đoán sau cùng. Theo đó, các kết luận có thể làKhông có loạn sản Nếu bệnh nhân bị Barrett thực quản nhưng không phát hiện thấy dấu hiệu tiền ung thư;Loạn sản cấp độ thấp Nếu phát hiện một số tế bào có dấu hiệu tiền ung thư mức độ nhẹ.Loạn sản nghiêm trọng Nếu các tế bào có dấu hiệu bất thường lớn liên quan đến ung thư thực quản. Hiện tượng loạn sản nghiêm trọng được cho là mức độ cuối cùng trước khi chuyển thành ung thư thực quản. Sàng lọc Barrett thực quản Sàng lọc nguy cơ mắc bệnh thường được khuyến nghị cho nam giới có triệu chứng GERD ít nhất một lần, không đáp ứng với điều trị bằng thuốc nhóm ức chế bơm proton và có ít nhất hai yếu tố nguy cơ khác, bao gồmTrên 50 tuổi;Là người da trắng;Có nhiều mỡ bụng;Là người có thói quen hút thuốc;Có tiền sử gia đình mắc bệnh Barrett thực quản hoặc ung thư thực dù phụ nữ là đối tượng ít có khả năng bị Barrett thực quản nhưng vẫn nên thực hiện kiểm tra nếu có triệu chứng trào ngược axit khó kiểm soát hoặc có các yếu tố nguy cơ khác đối với Barrett thực quản. 8. Điều trị Barrett thực quản Điều trị cho bệnh nhân Barrett thực quản phụ thuộc vào mức độ bất thường của tế bào trong thực quản và tình hình sức khỏe tổng thể của người bệnh. Trường hợp không loạn sản Chỉ định điều trị có thể làNội soi định kỳ để theo dõi và kiểm tra các tế bào trong thực quản. Nếu kết quả sinh thiết cho thấy không có loạn sản, bệnh nhân có thể sẽ được nội soi theo dõi trong một năm sau đó và nếu không có thay đổi nào xảy ra thì thực hiện lại sau 3 năm;Điều trị GERD Sử dụng thuốc và thay đổi lối sống có thể làm giảm các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh nhân. Phẫu thuật cũng có thể là một lựa chọn. Điều trị GERD không thể giải quyết bệnh Barrett thực quản tiềm ẩn và không làm giảm nguy cơ ung thư thực quản, nhưng giúp bác sĩ phát hiện chứng loạn sản dễ dàng hơn. Loạn sản cấp thấp Đối với chứng loạn sản cấp độ thấp, bác sĩ có thể đề nghị tái nội soi trong vòng 6 tháng, kèm theo đó là theo dõi bổ sung sau mỗi 6 - 12 nhiên, với bệnh nhân có nguy cơ bị ung thư thực quản, các phương pháp điều trị ưu tiên bao gồmMổ nội soi Sử dụng thiết bị nội soi để loại bỏ các tế bào bất thường;Đốt tế bào bất thường bằng sóng cao tần Sử dụng nhiệt để loại bỏ mô thực quản bất thường. Phương pháp có thể được khuyến nghị sau khi thực hiện mổ nội soi. Loạn sản nghiêm trọng Chứng loạn sản độ cao được cho là tiền thân của ung thư thực quản. Vì lý do này, bác sĩ có thể đề nghị mổ nội soi hoặc đốt tế bào bằng sóng cao tần. Các lựa chọn điều trị khác bao gồmLiệu pháp lạnh Sử dụng thiết bị nội soi để truyền chất lỏng hoặc luồng khí lạnh đến các tế bào bất thường trong thực quản. Các tế bào này có thể được để ấm trở lại và sau đó thực hiện đông lạnh một lần nữa. Chu kỳ đông lạnh và rã đông sẽ làm hỏng các tế bào bất thường;Liệu pháp quang động Làm phá hủy các tế bào bất thường bằng năng lượng ánh sáng;Phẫu thuật thực quản Loại bỏ phần thực quản tổn thương, phần còn lại được nối vào dạ dày của bệnh phát Barrett thực quản đôi khi xảy ra sau khi điều trị. Vì vậy, bác sĩ thường sẽ đề nghị bệnh nhân định kỳ kiểm tra theo sĩ. Bác sĩ Trần Ngọc Hải có kinh nghiệm trong khám, chẩn đoán và điều trị các bệnh ung thư, trong đó có 15 năm công tác tại Trung tâm Ung Bướu Bệnh viện Bạch Mai. Hiện bác sĩ đang là bác sĩ Nội ung bướu tại Trung tâm Ung bướu xạ trị - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. Cách chữa trào ngược dạ dày thực quản XEM THÊM Ung thư là gì? Sự khác biệt giữa tế bào ung thư và tế bào bình thường Viêm thực quản trào ngược kháng trị - Định nghĩa và các thể lâm sàng Phần 1 Cơ chế hoạt động của Axit axetic trong chẩn đoán Barrett thực quản Dịch vụ từ Vinmec
Người ta biết rằng thực quản của Barrett có thể xảy ra ở bệnh nhân có sự tiến triển của GERD, nhưng sự phát triển của nó có thể xảy ra ngay cả ở những bệnh nhân không bị bệnh này. Các nguyên tắc chính điều trị bằng thuốc cho bệnh nhân GERD được biết, theo kinh nghiệm của chúng tôi, có thể được sử dụng trong điều trị bệnh nhân GERD phức tạp do thực quản của Barrett. Các tìm kiếm tiếp tục cho các tùy chọn tốt nhất cho việc điều trị những bệnh nhân này, mà mục đích - việc loại bỏ các biểu hiện lâm sàng không chỉ của GERD, mà còn là loại bỏ tất cả các đặc tính hình thái tin đặc trưng của Barrett, và do đó cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Người ta thường giả định rằng việc điều trị thực quản của Barrett phụ thuộc chủ yếu vào sự hiện diện và mức độ dysplasia, nhưng không phải lúc nào cũng có thể "ngăn chặn" sự tiến triển của loạn sản và sự phát triển ngược lại của nó. [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9] Điều trị thuốc Barrett thực quản Các điều trị bằng thuốc cơ bản của bệnh nhân Barrett là hướng đến sự ức chế axit trong dạ dày và loại bỏ giảm tần số và cường độ của bệnh trào ngược dạ dày. Sở thích là trong điều trị các bệnh nhân được gán thuốc ức chế bơm proton omeprazole, pantoprazole, lansoprazole, Rabeprazole, hoặc esomeprazole được sử dụng trong điều trị bệnh nhân, thường xuyên nhất trong liều điều trị tiêu chuẩn tương ứng với 20 mg, 40 mg, 30 mg, 20 mg và 20 mg 2 lần mỗi ngày. Nên nhớ rằng với sự trợ giúp của các chất ức chế bơm proton, không thể đạt được sự ức chế acid trong dạ dày 100%. Khi sức đề kháng cho các thuốc ức chế bơm proton, đạt ở một số quần thể 10%, điều trị Barrett thực quản để được sử dụng chất đối kháng histamine đối kháng H2 ranitidin hoặc famotidine, tương ứng, 150 mg và 20 mg 2 lần mỗi ngày. Trong trường hợp này việc sử dụng ranitidine hoặc famotidine ở liều cao hơn trong việc điều trị bệnh nhân GERD bị Barrett thực quản là hoàn toàn hợp lý trong giai đoạn thể hiện sự suy giảm của bệnh nhân trong vòng 1-2 tuần, sau đó giảm dần liều thuốc như nghỉ dưỡng. Ức chế axit trong dạ dày dẫn đến sự suy giảm trong đó không chỉ là tổng khối lượng axit, nhưng nội dung của quá trình axit hóa của tá tràng, do đó góp phần vào sự ức chế cô lập của protease, đặc biệt là trypsin. Tuy nhiên, ảnh hưởng bệnh lý của axit mật muối trên niêm mạc của thực quản vẫn còn. Trong sự ức chế kéo dài này của axit trong dạ dày của một chất ức chế bơm proton dẫn đến sự sụt giảm trong tổng khối lượng của các nội dung dạ dày do giảm tiết acid, và do đó nồng độ cao của acid mật bằng cách giảm 'pha loãng' của axit hydrochloric. Trong giai đoạn này, axit mật muối có vai trò quan trọng trong sự phát triển ung thư biểu mô thực quản của thực quản. Trong trường hợp này điều trị Barrett nên sử dụng axit Ursodeoxycholic ursosan, có tác dụng tích cực đến trào ngược mật và viêm dạ dày trào ngược thực quản mật một viên nang trước khi đi ngủ. Đối với sự hấp thu acid mật trong điều trị, nếu cần thiết, tiếp tục khuyến khích sử dụng các thuốc kháng acid và nonabsorbable fosfalugel, almagel Neo Maalox et al., 3-4 lần một ngày, một giờ sau khi ăn. Điều này sẽ hấp thụ các axit mật có chứa trào ngược tá tràng vào dạ dày, và sau đó vào thực quản. Đối với một loại bỏ nhanh hơn ợ nóng đốt và / hoặc đau ngực và / hoặc vùng thượng vị và sự hiện diện của các triệu chứng của điều trị thoả mãn của Barrett phải bao gồm việc sử dụng các prokinetic domperiodon hoặc metoclopramide, tương ứng, trong 10 mg ba lần một ngày trong 15-20 phút trước bữa ăn. Trong sự hiện diện của bệnh nhân với các triệu chứng liên quan đến stretchability quá mẫn bụng tràn xuất hiện lực hấp dẫn và sưng thượng vị xảy ra trong hoặc ngay sau bữa ăn, nó được khuyến khích trong việc điều trị bệnh nhân bổ sung bao gồm chế phẩm enzyme mà không chứa acid mật pancreatin , penzital, kreon, vv. Sự biến mất các triệu chứng lâm sàng, có thể ở những bệnh nhân GERD bị Barrett thực quản như một kết quả của việc điều trị, không phải là một dấu hiệu của sự phục hồi đầy đủ. Do đó điều trị thực quản thuốc ức chế bơm đặc biệt là proton Barrett nên tiếp tục để giảm chi phí tài chính trong tương lai - bản sao generic omeprazole . Pleom-20 ultop, romisek, gastrozol et al, Hoặc bản sao của lansoprazole lantsid, lanzap, gelikol cũng như bản sao của pantoprazole sanpraz bản ranitidine Ranisan, zantak et al. hoặc famotidine famosan, gastrosidin, kvamatel et al.. Việc sử dụng ranitidine ở liều cao 600 mg mỗi ngày để điều trị bệnh nhân GERD với Barrett là hợp lý vì xác suất cao tác dụng phụ chỉ khi bệnh nhân là famotidine quá nhạy cảm 60-80 mg mỗi ngày hoặc thuốc ức chế bơm proton. Liệu pháp này giúp loại bỏ trên một khoảng thời gian cụ thể của các triệu chứng GERD ở hầu hết các bệnh nhân này, phần còn lại - để giảm tính hiệu quả và tần số xuất hiện của họ. Ở một số bệnh nhân, kết quả của việc điều trị với sự biến mất của những dấu hiệu nội soi thực quản chữa bệnh loét và loét thực quản không có triệu chứng được coi là đặc trưng của GERD, bệnh nhân khác có nghĩa là giảm sự hiện diện của sự nhạy cảm đau đớn của trào ngược thực quản không kèm theo đau và ợ nóng. Căn cứ vào khả năng của các yếu tố khác nhau dẫn đến sự xuất hiện của Barrett thực quản với điều trị kéo dài của bệnh nhân đó là thích hợp với thuốc định kỳ thay thế mà ức chế sản xuất axit trong dạ dày, một sự chuẩn bị có che chắn và hành động cytoprotective, giúp ngăn chặn niêm mạc thực quản từ các axit mật hung hăng và enzyme tuyến tụy, chẳng hạn như việc sử dụng sucralfate gel sukrat gel 1,0 g một giờ trước bữa ăn sáng và buổi tối trước khi đi ngủ ít nhất 6 tuần. Tuy nhiên, khả năng điều trị như bệnh nhân Barrett thực quản là chưa rõ ràng, mặc dù việc sử dụng các thuốc này trong điều trị một số bệnh nhân bị GERD đưa ra một số tác dụng tích cực. Trong khi vẫn thường cung cấp điều trị Barrett thực quản với thuốc ức chế bơm proton trong một số trường hợp kết hợp với prokinetic. Tuy nhiên, một cuộc tranh cãi có thể chống lại một thực tế sau - ung thư tuyến thực quản xuất hiện và sau khi việc loại bỏ trào ngược dạ dày và đủ ức chế axit hydrochloric, đó là có thể, nhưng chỉ một thời gian sau khi việc bãi bỏ ma túy. Rõ ràng, bạn cần một điều trị y tế dài khá của bệnh nhân. Tương đối hiếm, thậm chí nếu có một chữa bệnh lâu dài thực quản thuốc ức chế bơm proton Barrett trong quan sát động nghiên cứu mô học của vật liệu sinh thiết không để lộ phần "leo" biểu mô vảy phân tầng của thực quản để các đơn lớp biểu mô hình cây cột của dạ dày hoặc ruột trong một thực quản giai đoạn cuối, mà đến một mức độ nhất định nó thể hiện tính hiệu quả của việc điều trị. Thật không may, "antireflux" điều trị không ảnh hưởng đến độ dài nhiều hơn hoặc ít hơn đáng kể các bộ phận metaplazirovannogo biểu mô hình cây cột ở thực quản, một phát hiện trong quá trình nghiên cứu nội soi với thực hiện sinh thiết, và kết quả là không giảm và nguy cơ ung thư tuyến thực quản. Adenocarcinoma thực quản và có thể xuất hiện sau khi gỡ bỏ có thể nhìn thấy qua endofibroskop biến đổi bệnh lý thông thường của niêm mạc thực quản. Điều quan trọng là phải theo dõi định kỳ các bệnh nhân với thực quản của Barrett. đề xuất khác nhau cho thời gian của các kỳ thi theo dõi bệnh nhân bắt buộc nội soi đường tiêu hóa trên với sinh thiết và xét nghiệm mô học tiếp theo của tài liệu sinh thiết lấy từ phần thiết bị đầu cuối của thực quản, - tương ứng tại thường xuyên 1-2-3-6 tháng hoặc một năm. Quan sát này, theo ý kiến của chúng tôi, nên được khá tích cực từ các bác sĩ tỷ lệ bệnh nhân được điều trị thành công cho GERD chẩn đoán Barrett, trong quá trình kiểm tra theo dõi tiếp theo có sức khỏe tốt không có dấu hiệu lâm sàng của trào ngược thực quản không phải là rất sẵn sàng chấp nhận hoặc từ chối tham dự kỳ thi lâm sàng và nội soi, đặc biệt là trong trường hợp bệnh nhân có độ nhạy giảm đau sự hiện diện của trào ngược dạ dày D để kèm theo sự xuất hiện của đau đớn và ợ nóng ở ngực và / hoặc ở vùng thượng vị hoặc cuộc khảo sát được tiến hành thường xuyên hơn 2 lần mỗi năm. [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16] Phẫu thuật thực quản của Barrett Theo định kỳ trong tài liệu, kết hợp với sự gia tăng tần suất các thay đổi tiền ung thư và ác tính trong các tế bào ruột của thực quản của Barrett, câu hỏi về điều trị phẫu thuật cho bệnh nhân có thể được thảo luận. Khi điều trị phẫu thuật thực quản của Barrett thực quản xác suất xảy ra ung thư biểu mô u của thực quản, ở một số bệnh nhân, với sự xuất hiện của các di căn xa xôi; những khó khăn trong việc chẩn đoán sớm ung thư biểu mô thực quản, bao gồm cả việc sử dụng phương pháp X-quang, nội soi và mô học để kiểm tra các vật liệu của thực quản esophagobiopsy mục tiêu, đặc biệt là trong ung thư xâm lấn; ngoài ra có thể không phát hiện ra loạn sản và do không chính xác về sinh thiết và một lượng nhỏ vật liệu thu được để kiểm tra mô học; sự cần thiết phải kiểm tra nội soi định kỳ với nhiều lần sinh thiết đích; những khó khăn đã biết trong việc giải thích hình thái học của các dữ liệu thu được. Khi điều trị phẫu thuật thực quản của Barrett thực quản là không thực tế việc giải thích sai lầm ban đầu về những thay đổi hình thái trong niêm mạc, được coi là loạn sản, và sau đó là kết quả của những thay đổi phản ứng thoái trào dưới ảnh hưởng của liệu pháp "chống tràn"; có khả năng hồi quy mô hình bào chế thực quản của niêm mạc thực quản trong điều trị bệnh nhân thực quản của Barrett dưới ảnh hưởng của liệu pháp "chống tràn"; Khả năng phát triển ung thư biểu mô u tuyến thực quản không thấy ở tất cả các bệnh nhân; sự xuất hiện của ung thư biểu mô tuyến thực quản chỉ có thể là 17-20 năm sau khi phát hiện ban đầu; ở một số bệnh nhân, thậm chí với một mức độ cao của dysplasia, ung thư biểu mô của thực quản không phát triển; không có xu hướng gia tăng mức độ nhồi máu tĩnh mạch ở một số bệnh nhân, mặc dù tiến triển của GERD; Câu hỏi về cách điều trị phẫu thuật bệnh nhân với thực quản của Barrett vẫn chưa được giải quyết triệt để; có khả năng xảy ra phẫu thuật và sau phẫu thuật, bao gồm các biến chứng chết người lên đến 4-10%; ở một số bệnh nhân, sự có mặt của chống chỉ định điều trị phẫu thuật, liên quan đến bệnh kèm theo; từ chối một số bệnh nhân điều trị phẫu thuật. Xét Barrett là một trong những biến chứng của GERD, cần lưu ý rằng fundoplication Nissen là phẫu thuật phổ biến nhất trong việc điều trị những bệnh nhân này. Thực Nissen fundoplication cho phép hầu hết các bệnh nhân để loại bỏ các triệu chứng của GERD như ợ nóng, ợ hơi, và ít nhất là trong giai đoạn hậu phẫu gần nhất, nhưng không chắc, hoạt động không thể ngăn chặn sự xuất hiện của thực quản Barrett. Được biết đến những nỗ lực của quang đông bằng laser lặp đi lặp lại cho mục đích này một tia laser argon thường được sử dụng và đốt điện sử dụng dòng tần số cao foci metaplazirovannogo biểu mô, thiết bị đầu cuối thực quản kể cả khi điều trị bệnh nhân kết hợp với tổ chức điều trị kháng tiết. Tuy nhiên, hiệu quả của phương pháp này vẫn còn chưa rõ ràng và liệu điều trị như vậy có thể ngăn ngừa sự phát triển ung thư biểu mô thực quản của thực quản hay không. Bản thân nó, sự xuất hiện của một vết sẹo ăn mòn sau khi điều trị bằng laser là một yếu tố nguy cơ ung thư biểu mô thực quản của thực quản. Nó đã không chứng minh bản thân trong biểu mô metaplazirovannom của niêm mạc thực quản như một đốt điện, và liệu pháp quang động. Trong những năm gần đây, thỉnh thoảng xem xét việc thực hiện cắt bỏ nội soi các hội chứng bệnh lý nhỏ của thực quản của Barrett, bao gồm cả kết hợp với điều trị bằng quang động học. Một quan điểm duy nhất về điều trị bệnh nhân có mức độ loạn sản cao vẫn chưa được thông qua. Cũng không có sự đồng thuận về điều trị phẫu thuật bệnh nhân với thực quản của Barrett với mức độ loạn sản cao, được xem là nguy hiểm nhất trong chuyển đổi thành ung thư. Hoạt động triệt để là sự giải phẫu của thực quản và cardia dạ dày cho bệnh nhân được xác định qua thực quản của Barrett. Tuy nhiên, hoạt động này rộng bao nhiêu? Câu hỏi này cũng cần được làm rõ. Với tuổi tác và tình trạng của bệnh nhân cụ thể, trong mỗi trường hợp, điều trị thực quản của Barrett đều được tính riêng, bao gồm cả dữ liệu về việc giám sát động tình trạng của họ. [17], [18], [19]
thuốc điều trị barrett thực quản