thời đại nguyễn du
Hoàng tử bé và những mối duyên lành (4) 17/04/2022, của Nguyễn Tấn Đại Suốt một tuần lễ cuối tháng 7 tại Bảo Lộc, đúng dịp tròn một năm ngày cưới, ngoài giờ ăn và ngủ tôi gần như chỉ có ôm sách vở ngồi dịch truyện. Một mạch từ ngày 25, tôi xem lại bản dịch từ đầu, biên tập đôi chút và dịch tiếp đến ngày 31 thì hoàn tất bản dịch viết tay.
Tại Thái Nguyên, trong thời gian qua, Tập đoàn Flamingo được dư luận thông tin đã triển khai tìm hiểu đầu tư hai dự án lớn gồm: Khu du lịch nghỉ dưỡng quốc tế 5 sao Hồ Núi Cốc tại xã Phúc Xuân (TP. Thái Nguyên) và Khu du lịch nghỉ dưỡng quốc tế 5 sao Hồ Núi Cốc quy mô
Tomas Nguyễn bỏ đại học, phá hợp đồng ở châu Âu để về Việt Nam. Thứ tư, 14/9/2022 11:00 (GMT+7) Cầu thủ Việt kiều chấp nhận từ bỏ cơ hội thi đấu ở giải hạng Ba CH Czech để về Việt Nam và theo đuổi giấc mơ chơi cho tuyển quốc gia trong tương lai. Tomas Nguyễn Đức
Thi hào Nguyễn Du cũng ra đi vào năm 1820, khi mới chỉ 54 tuổi. Vị vua mới đã có các chính sách cứu trợ, hoãn bắt lính, khoan sức dân. Đại Nam Thực lục ghi lại Dụ của vua Minh Mạng: " Gần đây
TTO - Nhiều tuyến đường cửa ngõ của Hà Nội bắt đầu có dấu hiệu kẹt cứng xe cộ do người dân tranh thủ về quê nghỉ lễ Quốc khánh 2-9 với gia đình. Sáng đầu tuần, nhiều tuyến đường Hà Nội lại ùn ứ. Người dân đội mưa trở lại Hà Nội mùng 6 Tết, cửa ngõ
Sở GTVT Hà Nội vừa đề xuất UBND TP cho phép kéo dài thời gian thí điểm phân làn đường Nguyễn Trãi đến hết năm 2022, thay vì kết thúc ngày 6/9. Sở GTVT Hà Nội vừa có báo cáo gửi UBND TP về kết quả thí điểm điều chỉnh tổ chức giao thông tuyến đường Nguyễn Trãi (đoạn Ngã Tư Sở - Khuất Duy Tiến).
Vay Tien Nhanh Home Credit.
Ma Kết - Gia đình▪️ Nguyễn Du 1765 - 1820 tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên quê ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.▪️ Gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn học cha là Nguyễn Nhiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ chức Tể tướng; anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản từng làm quan to dưới triều Lê - Trịnh.▪️ Nhưng sớm mồ côi cha mẹ mồ côi cha từ năm 9 tuổi, mồ côi mẹ từ năm 12 tuổi. Hoàn cảnh gia đình cũng có tác động đến sáng tác của Nguyễn Thời đại▪️ Cuộc đời Nguyễn Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Các tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh - Nguyễn tranh giành quyền lực▪️ Chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng, xã hội rối ren, cuộc sống của nhân dân cơ cực, lầm tham.▪️ Phong trào khởi nghĩa diễn ra khắp nơi, tiêu biểu nhất chính là khởi nghĩa Tây Sơn do Quang Trung Nguyễn Huệ lãnh đạo.▪️ Nghĩa quân Tây Sơn đã đánh đổ tập đoàn phong kiến Trịnh, Lê, Nguyễn, quét sạch hai mươi vạn quân xâm lược nhà Thanh sang xâm đời▪️ Nguyễn Du đã phải sống phiêu bạt nhiều năm ở đất Bắc 1786-1796 rồi sau đó về ở ẩn ở Hà Tĩnh 1796-1802.▪️ Nguyễn Ánh lên ngôi mời ông ra làm quan, bất đắc dĩ ông phải nhận lời 1802. Ông từng được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc, chuẩn bị đi lần thứ hai thì bị bệnh mất ở Huế.▪️ Cuộc đời phiêu bạt sống phiêu bạt nhiều nơi trên đất Bắc, ở ẩn ở Hà Tĩnh, làm quan dưới triều Nguyễn, đi sứ Trung Quốc… Vốn hiểu biết sâu rộng, phong phú về cuộc sống của Nguyễn Du có phần do chính cuộc đời phiêu bạt, trải nghiệm nhiều tạo thành.==> Nguyễn Du là người có kiến thức sâu rộng vốn sống phong phú, am hiểu nền văn hóa dân tộc đặc biệt là niềm thương cảm sâu sắc với những đau khổ của nhân dân, là một thiên tài văn học, một nhà nhân đạo chủ nghĩa tắt truyện KiềuNăm Gia Tĩnh triều Minh, ở Bắc Kinh bên Trung Quốc có một người con gái tài sắc tuyệt vời là Thúy Kiều. Khi đi Thanh Minh Thúy Kiều đã gặp một chàng trai tài hoa là Kim Trọng. Hai người đã yêu thương và thế thốt với Kim Trọng về hộ tang chú, vì thằng bán tơ vu oan, Kiều phải bán mình chuộc tội cho cha và cho em trai là Vương Ông và Vương Quan. Thúy Kiều đã phải nhờ em gái là Thúy Vân thay mình kết duyên cùng Kim Trọng để giữ vẹn lời thề. Người mua Thúy Kiều là Mã Giám Sinh, một tên buôn người cho Tú Bà ở Lâm Truy. Bị Tú Bà đánh đập ép làm nghề ô nhục, Kiều đã tự tử. Tú Bà tạm thời nhượng bộ, cho Kiều ra ở lầu Ngưng Bích, rồi dùng Sở Khanh lừa Kiều, đánh đập dã man ép Kiều phải tiếp được Thúc Sinh chuộc ra, nhưng lại bị cha của Thúc Sinh là Thúc Ông thưa đến cửa công, bi vợ của Thúc Sinh là Hoạn Thư nhờ mẹ là Hoạn Bà cho bọn đầy tớ là Khuyển Ưng, Khuyển Phệ bắt cóc, rồi biến thành đầy tớ nhà Hoạn Bà, Hoạn Thư. Thúc Sinh tuy có gặp lại Kiều nhưng không dám nhận. Cuối cùng Kiều đã bị Hoạn Thư ép phải đi tu tại Quan Âm Các. Lâm bước đường cùng, Kiều phải ăn cắp chuông vàng, khánh bạc rồi trốn khỏi nhà Hoạn Thư, gặp vãi Giác Duyên, nương náu ở Chiêu An bị gia đình Hoạn Thư biết được, vãi Giác Duyên phải gửi Kiều ở nhà Bạc Bà. Cháu của Bạc Bà là Bạc Hãnh giả danh lấy Kiều rồi bán Kiều vào thanh lâu ở Châu Thai. Nơi đây Kiều gặp Từ Hải, được Từ Hải chuộc ra rồi giúp Kiều báo ân, báo oán. Nhưng Kiều lại bị Hồ Tôn Hiến lừa, khiến Từ Hải bị tử trận còn Kiều thì bị bi gả cho Thổ tủi nhục, Kiều đã nhảy xuống sông Tiền Đường tự trầm, nhưng được vãi Giác Duyên cứu sống, rồi về tu chung với vãi Giác Duyên. Tình cờ, vãi Giác Duyên gặp được gia đình của Kiều tưởng Kiều đã chết, khi đang lập đàn cầu siêu cho Kiều, nên Kiều lại được đoàn tụ với gia đình. Trước áp lực của cả gia đình, Kiều phải làm lễ thành hôn với Kim Trọng, nhưng trong thực tế Kiều đã xin với Kim Trọng không phải làm vợ mà chỉ làm bạn với khảo thêm Tóm tắt tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du 0 Trả lời 26/09/21
lý thuyết trắc nghiệm hỏi đáp bài tập sgk Câu hỏi Thời đại, gia đình , bản thân nguyễn du ảnh hưởng như thế nào tới việc dáng tác truyện kiều Cuộc đời, bản thân, thời đại của Nguyễn Du có ảnh hưởng như thế nào đến "Truyện Kiều". Trình bày hiểu biết của em bằng đoạn văn 15 câu theo phương pháp lập luận diễn dịch. Huhu mọi người giúp em với ạ. Cám ơn nhiều ạaaaa!! Xem chi tiết tìm hiểu về tác giả Nguyễn Du xuất thân, cuộc đời, gia đình, sự nghiệp văn họcTác phẩm Truyện Kiều nguồn gốc, thể loại, giá trị nội dung và nghệ thuật Xem chi tiết Queen 2 tháng 8 2021 lúc 1643 Trong Truyện Kiều , Nguyễn Du viết '' Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài ''Em hiểu như thế nào về quan điểm đó. Hãy làm sáng tỏ cái tâm của Nguyễn Du trong Truyện Kiều qua bài Chị em Thúy Kiều và Kiểu ở lầu Ngưng Bích hình thứ là 1 bài văn 6đ ạplzz Xem chi tiết *Hàn Mặc Tử từng nói "Người thơ phong vận như thơ ấy". Hãy giải thích và chứng minh ngắn gọn qua một tác giả và một tác phẩm lấy tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du *Mọi người giúp mình viết mở bài và kết bài với ạ! Xem chi tiết Nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du ở hai đoạn trích "Chị em Thúy Kiều” và đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích ” khác nhau như thế nào?Gắp lắm ạ5h 11/9/2021 Xem chi tiết Thi pháp văn học trung đại là gì? Lấy ví dụ về thi pháp văn học trung đại trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Xem chi tiết Trong Nghĩ thêm về Nguyễn, Chế Lan Viên viết Các triều đại bể dâu nhưng thi cảo trường tồn Anh lập công trên dòng ngôn ngữ ấy Bạch Đằng anh là cắm cọc vào thời gian nước chảy Cho nghìn năm sau vầng trăng tiếng việt mãi còn. Em hiểu như thế nào về ý thơ Truyện kiều, bàn về sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Du Xem chi tiết Trong câu thơ “cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”Câu thơ trên liên quan bút pháp nào của ng du trong truyện kiều e hiểu như thế nào về bút pháp đó Xem chi tiết Tóm tắt bài Truyện Kiều của Nguyễn Du Xem chi tiết
Trong phim "Đại thi hào Nguyễn Du", danh nhân buồn lòng khi thời thế đổi thay, phải sống nghèo khổ, nương nhờ nhà vợ ở đất Thái Bình. Tác phẩm tài liệu được đạo diễn Nguyễn Văn Đức "thai nghén" ba năm, chiếu tại Liên hoan phim Việt Nam tháng 11. Thời lượng ba tiếng, phim tái hiện cuộc đời, sự nghiệp đại thi hào, từ lúc chào đời năm 1765 đến khi qua đời năm 1820. Không chỉ đơn thuần tường thuật, tác phẩm lý giải căn nguyên hình thành nhân cách, tư tưởng của nhà thơ, từ đó phân tích tác động của chúng với văn chương của đại thi hào. Trailer phim "Đại thi hào Nguyễn Du". Video Việt MediaTừ nhỏ, ông là cậu bé có trí tuệ, sớm hiểu sự đời. Sinh ra trong gia đình quý tộc, là con thứ của Tể tướng Nguyễn Nghiễm, ông có tấm lòng nhân ái, yêu thương chúng sinh, đồng cảm với người nông dân, cậu bé ăn mày. Đặc biệt, tài năng thơ của ông sớm bộc lộ, được cha đặt nhiều kỳ vọng. Diễn viên nhí Doãn Đức Huy đóng Nguyễn Du lúc nhỏ. Ảnh Việt Media Nhà Tây Sơn lên nắm chính quyền từ năm 1778 khiến gia đình ông - dòng họ quan lại thời Hậu Lê - thất thế. Nguyễn Du sống ẩn dật ở đất Quỳnh Côi Thái Bình. Nhiều lần, anh vợ ông là nhà thơ Đoàn Nguyễn Tuấn khuyên em ra hợp tác nhà Tây Sơn nhưng ông cự tuyệt, không muốn dính dáng chốn quan trường, chấp nhận cuộc sống nghèo khó. Phim tái hiện nỗi đau đáu của ông khi cha mẹ mất sớm, anh em ly 10 năm ở ẩn đất Thái Bình, Nguyễn Du được nhà Nguyễn, lúc này đã thay thế nhà Tây Sơn, triệu ra phong làm tri huyện. Ông từng bốn lần từ chức nhưng rồi vẫn phải nhận chiếu vua, trở lại chính trường. Nguyễn Du coi đường làm quan chỉ là nghề kiếm sống, còn tâm hồn ông dành hết cho thi ca, như câu thơ trong bài Mạn hứng kỳ 2 "Cuộc đời trăm năm, kiết xác với văn chương".Bên cạnh chân dung Nguyễn Du, phim tái hiện hình ảnh những phụ nữ tần tảo, ảnh hưởng đến cuộc đời, con người đại thi hào. Mẹ ông là bà Trần Thị Tần, quê ở làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Từ nhỏ, mẹ, bà ngoại thường hát ru ông bằng dân ca Kinh Bắc, đưa ông đi thăm nhiều chùa chiền quanh vùng. Vì thế, các tác phẩm của Nguyễn Du sau này thấm đẫm tư tưởng Phật giáo về nhân - quả, các triết lý luân hồi của nhà vợ đầu tiên của ông - bà Đoàn Thị Tộ - tháo vát, chịu thương chịu khó, chạy vạy buôn bán lo cho gia đình suốt 10 năm ông ẩn cư ở Thái Bình. Đây cũng là khoảng thời gian ông bắt đầu viết Đoạn trường tân thanh. Trong một cảnh phim, đạo diễn khéo léo cài cắm việc dân gian truyền miệng Truyện Kiều, qua cảnh bà Tộ đi chợ, được chị em xúm xít yêu cầu đọc thơ của có đoạn nhắc tới mối tình giữa Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương - xuất hiện trong nhiều giai thoại. Sinh thời, Hồ Xuân Hương sáng tác bài thơ Cảm cựu kiêm trình Cần chánh học sĩ Nguyễn Hầu, được nhiều người suy đoán bà viết gửi ông. Giai thoại kể hai người quen biết trong một lần đi thuyền hái sen ở Hồ Tây, cảm mến tài thơ và nhân cách của nhau. Mối duyên kéo dài trong ba năm, cho tới khi Nguyễn Du phải về lại Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh đề xây từ đường cho dòng họ. Đạo diễn Nguyễn Văn Đức cho biết duyên gặp gỡ giữa hai thi nhân được ghi lại ngắn gọn trong gia phả họ nội Nguyễn Du ở Hà Tĩnh. Anh cũng tham khảo các chi tiết trong truyện Thêm một mối tình, tập Lãng đãng Nguyễn Du của tác giả Hoàng Khôi, Mai Ngọc Chúc. Sỹ Hưng đóng Nguyễn Du giai đoạn trưởng thành. Ảnh Việt Media Tác phẩm tạo sự lôi cuốn, kết nối qua các câu thơ của Nguyễn Du, chủ yếu là Truyện Kiều. Đoàn phim huy động đội ngũ gồm 50 diễn viên chính, phụ, hàng trăm diễn viên quần chúng. Bối cảnh, phục trang nhân vật đẹp, hài hòa. Nhờ sự tư vấn kịch bản từ nhiều nhà Kiều học, phim đi sâu lý giải những con người, cảnh vật tạo cảm hứng cho ông sáng tạo tuyệt tác dân tộc. Điểm trừ của phim là nhiều phần phỏng vấn các chuyên gia, nhà nghiên cứu hay nhân chứng xuất hiện đột ngột, làm đứt mạch cảm xúc khi người xem đắm chìm vào câu chuyện cuộc đời Nguyễn sĩ Đỗ Hồng Quân nhận xét phim không gây nhàm chán dù thời lượng dài. Ông đánh giá cao màn hóa thân của các diễn viên, nhất là là Sỹ Hưng trong vai Nguyễn Du. Ngoài ra, ông thích phần âm nhạc dân gian, tạo nét mộc mạc, dung dị cho sĩ Đinh Khánh Ly - người phụ trách âm nhạc - cho biết đoàn phim tái hiện nhiều làn điệu cổ, gắn với từng giai đoạn trong cuộc đời ông. Đó là điệu dân ca quan họ Bắc Ninh nơi ông sống thuở nhỏ, chèo cổ Thái Bình gắn với thời gian ông ở quê vợ và điệu ví dặm ở quê nội Hà Tĩnh. Hoàng Phượng đóng vai bà Trần Thị Tần mẹ Nguyễn Du. Ảnh Việt Media Phim sản xuất theo thể loại tài liệu dàn dựng, có diễn viên diễn xuất, phổ biến ở nhiều nước phương Tây từ những năm 1960. Lời thoại, cử chỉ các nhân vật là hư cấu nhưng đảm bảo các mốc thời gian, biến cố lớn trong cuộc đời họ. Êkíp liên hệ với các nhân vật như anh Nguyễn Hải Nam - hậu duệ đời thứ 14 của đại thi hào ở Hà Tĩnh, ông Trần Văn Bột - cháu bên ngoại của ông ở Bắc Ninh. Trong quá trình duyệt, Hội đồng thẩm định phim quốc gia tham vấn ý kiến từ Giáo sư, Tiến sĩ Trần Nho Thìn, Trần Đình Sử. Tác phẩm có kinh phí 15 tỷ đồng, dự định ra mắt năm ngoái, dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du nhưng nhiều lần bị lùi vì diễn Nguyễn Văn Đức sinh năm 1959, tốt nghiệp Đại học Điện ảnh quốc gia toàn Liên bang Xô Viết, nay là Viện Điện ảnh Nga. Anh từng quay một số phim như Trăng trên đất khách đạo diễn Tất Bình, Người đi tìm giấc mơ đạo diễn Nguyễn Thế Vĩnh, Khi người ta yêu đạo diễn Trần Phương... Từ năm 2010, anh chuyển sang làm đạo diễn, thực hiện các phim truyền hình như Bến tình yêu, Sóng ngầm, một số phim dài 90 phút phát trên truyền hình như Hạt mưa sa, Tìm lại ngày đã mất, Trái tim người mẹ, Huyền thoại Mường Thu
và thời đại của chúng ta Phạm Cao DươngThời đại và cuộc đời của những người Việt chúng ta thuộc hậu bán thế kỷ thứ hai mươi, tiền bán thế kỷ 21 này, nếu được diễn tả bởi những thiên tài văn học tương lai hay đã có nhưng hiện chưa được khám phá, chắc chắn còn có nhiều giá trị hơn gấp bội. Mong lắm thay! Trong hầu hết các tác phẩm viết về Văn Học Sử Việt Nam, Nguyễn Du thường được xếp vào thời Nguyễn Sơ hay Tiền Bán Thế Kỷ 19. Sự sắp xếp này có lẽ đã được căn cứ vào thời gian nhà đại thi hào của chúng ta sáng tác Truyện Kiều sau chuyến ông đi sứ nước Tầu về, tức sau năm 1813. Sắp xếp như vậy tôi nghĩ không được hợp lý và quá tùy thuộc vào các yếu tố chính trị và vào sự phân định thời gian theo lối Tây Phương. Lý do là vì sắp xếp và phân định thời gian trong văn học sử không nhất thiết phải gò bó một cách cứng nhắc y như sự sắp xếp trong sử học, đành rằng ngay trong sử học, nhất là lịch sử văn minh, khi nói tới Thế Kỷ 19, người ta không bắt buộc phải nghĩ rằng thế kỷ này phải bắt đầu vào năm 1800 và chấm dứt vào năm 1899, cũng như Triều Nguyễn phải bắt đầu vào năm 1802. Tất cả đều có thể sớm hơn hay trễ hơn tùy từng khía cạnh hay cách nhìn của sử gia về mỗi vấn đề, mỗi tác giả. Lý do rất đơn giản một tác phẩm văn học, đặc biệt tác phẩm văn học lớn thường phản ảnh hoàn cảnh chính trị và xã hội của cả thời đại của tác giả. Đối với Truyện Kiều, được viết sau năm 1813 không có nghĩa là chỉ thuộc Thế Kỷ 19, chỉ thuộc Thời Nguyễn Sơ. Trái lại, đại tác phẩm này phải được coi là đã thành hình từ nhiều chục năm trước đó và được kết tinh trong thập niên thứ hai của Thế Kỷ 19, dưới thời Nhà Nguyễn. Nó không phải chỉ phản ảnh cuộc đời và tâm sự riêng của Nguyễn Du mà còn phản ảnh cuộc đời và tâm sự chung của một phần không nhỏ những người thuộc thế hệ ông, những người sinh trưởng ở Bắc Hà trong hậu bán Thế Kỷ 18, dưới thời Lê - Trịnh và còn tiếp tục sống trong những thập niên đầu của Thế Kỷ 19 dưới thời Nguyễn Sơ. Phạm Quý Thích và hơn hai chục ông nghè khác của Triều Lê chẳng hạn. Gia dĩ ngoài Truyện Kiều, Nguyễn Du còn là tác giả của nhiều tác phẩm khác không kém giá trị ngoài tính phổ thông trong dân gian của chúng, Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh mà các sư ở các chùa ở Miền Bắc luôn luôn ngâm đọc với một giọng điệu vô cùng đau thương và thảm thiết trong ngày Rằm Tháng Bảy, ngày cúng cô hồn, chẳng hạn. Trong bài này, tôi muốn cùng bạn đọc nhìn lại thời đại của Nguyễn Du và những ảnh hưởng của những gì đã xảy ra ở thời này đối với cuộc đời, tâm tư và sự nghiệp của tiên sinh, đồng thời so sánh phần nào thời đại đó với thời đại của chúng ta hiện tại với một ước vọng trong những năm tới đây chúng ta có thể chứng kiến sự ra đời của không phải của một mà nhiều tác phẩm lớn nếu không hơn thì ít ra cũng không kém tác phẩm của Tiên Điền Nguyễn Tiên Sinh. Tất nhiên ước vọng là một chuyện, có được hay không lại là một chuyện khác. Nhưng ước vọng thì cứ ước lịch sử Việt Nam từ Thế Kỷ 19 trở về trước, không có thời kỳ nào đen tối hơn thời kỳ của những năm cuối cùng của thời Lê Mạt và trong toàn bộ lịch sử Việt Nam, không có thời nào suy đốn và nhiều bạo lực hơn thời kỳ sau năm 1945. Nguyễn Du đã sống trong những năm cuối cùng của thời Lê Mạt và chúng ta đã sống trong những chục năm sau Thế Chiến Thứ Hai. Trong lịch sử văn học Việt Nam, Nguyễn Du có thể nói là một người đã sống một cuộc sống đau thương nhất, u buồn nhất, do đó đã mang một tâm sự u uẩn nhất, xót xa nhất. Còn trong lịch sử dân tộc, chúng ta là những kẻ đã phải gánh chịu hay được chứng kiến nhiều cảnh đổ vỡ, chia ly éo le nhất, từ đó đã mang những niềm đau khắc khoải nhất, thầm kín nhất, đặc biệt là những người đã có cái may, hay không may sinh ra và trưởng thành trong những năm trước khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt và hiện tại vẫn còn đang sống. Nguyễn Du cũng là người có cái may đồng thời cũng là cái không may tương tự. Hai đại biến cố, hai cuộc đời cách nhau ngót hai trăm năm, tuy mang những tính cách đặc thù của những biến cố và những sự thực lịch sử vẫn có những tác động giống nhau đối với nội tâm của con người. Có khác chăng là ở thời Nguyễn Du mọi chuyện chỉ xảy ra quanh quẩn trong nội địa của nước Việt Nam và giữa người Việt Nam với nhau. Còn ở thời đại chúng ta mọi chuyện đã xảy ra trên một bình diện lớn lao hơn, cổ kim chưa từng có, là khắp thế giới. Biến cố 30 tháng 4, 1975 đã bẩy tung hàng triệu người Việt ra khắp địa cầu để đến bây giờ, bước sang Thiên Niên Kỷ Thứ Ba sau Tây Lịch, một học sinh Việt Nam đã có thể hãnh diện được học rằng “Mặt trời không bao giờ lặn trên những miền đất có người Việt Nam cư ngụ!” thay thế cho một học sinh người Anh hồi cuối Thế Kỷ 19, với tất cả những cái may cũng như những cái không may của sự kiện lịch sử này. Sinh năm 1765, dưới thời Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 26, trong một gia đình cha, chú, anh, em đều thi đậu và làm quan to vào bậc nhất phẩm đương thời. Nguyễn Du đã có dịp sống cuộc đời niên thiếu của một công tử con nhà thế gia, vọng tộc ở chốn kinh đô ngàn năm văn vật, vào lúc cơ nghiệp của hai họ Lê, Trịnh còn tương đối vững chãi, chưa có gì báo trước một sự xụp đổ trong tương lai. Ông hãy còn được thấy tận mắt hay được nghe nói về cuộc sống nghiêm ngặt hay nhàn rỗi, xa hoa ở các cung vua, phủ chúa vào lúc nước nhà vô sự như được tả trong Thượng Kinh Ký Sự của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác 1720 – 1791 hoặc Vũ Trung Tùy Bút của Phạm Đình Hổ 1768 – 1839, mặc dầu cha mẹ mất sớm và mặc dầu không được thành công lắm trên đường khoa hoạn. Nhưng kể từ khi Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm mất 1782, thế đứng của hai họ Lê, Trịnh đã bắt đầu suy sụp. Kiêu Binh làm loạn 1784 và Tây Sơn ra Bắc 1786 – 1787 đã chấm dứt triều đại Nhà Lê sau ngót bốn trăm năm trị vì kể từ khi Lê Thái Tổ đánh đuổi Quân Minh dựng nên nghiệp lớn 1428 -1787 và làm xụp đổ ngôi chúa của họ Trịnh. Tố Như Tiên Sinh lúc ấy mới có 22, 23 tuổi. Cuộc đời đầy u buồn, bất đắc chí, xen lẫn với những nuối tiếc của ông bắt đầu từ khi ông phải tản cư về ẩn náu ở quê vợ thuộc xã Hải An, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình ngày nay, xa hẳn đất kinh kỳ, nơi sau này chỉ còn là cảnhThiên niên cự thất thành quan đạo, Nhất phiến tân thành một cố cung. Thăng Long IDinh xưa cung cũ còn đâu?Mà nay đường trước thành sau khác rồi! Hoa Đăng dịchhayTương thức mỹ nhân khan bão tử,Đồng du hiệp thiếu tận thành đẹp buổi xưa đều bế trẻ,Bạn chơi thuở nhỏ thẩy thành ông!Quách Tấn dịchkhi Nguyễn Du “Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long” Bạc đầu còn được thấy Thăng Long nhân chuyến đi sứ Nhà Thanh vào năm 1813 có dịp ghé hết, sự đổi chủ đã không diễn ra một cách êm đềm mà trong cảnh “Máu tươi lai láng , xương khô rụng rời” với những “ Bãi sa trường thịt nát máu rơi” để “Phơi thây trăm họ nên công một người” đã liên tiếp xảy ra mà Nguyễn Du đã tả trong Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh. Nguyễn Hữu Chỉnh, người bạn giao du thân thiết với anh em họ Nguyễn, người được coi là thiên tài vô song của đất Bắc Hà, đã bị xé xác, phơi thây, bào huynh của Nguyễn Du là Nguyễn Quỳnh cũng bị Tây Sơn giết chết. Anh em xưa kia quây quần đông đúc, nay ly tán mỗi người một phương, còn chính Nguyễn Du cũng đã hơn một lần bị Tây Sơn bỏ ngục. Cuối cùng vào năm 1796, tiên sinh đã phải bỏ tất cả, trở về sống ở chốn cố hương, ngày ngày đi săn để mai danh ẩn tích, nhưng vẫn một lòng tưởng nhớ tới Nhà Lê với một tâm sự mà Hồng Liên Lê Xuân Giáo, một trong những vị túc nho lão thành đã di tản sang sống ở San Diego trong thời đại của chúng ta, đã so sánh với tâm trạng của Đặng Dung, xuyên qua hai câu thơ trong bài Thuật Hoài của vị nghĩa sĩ của Thời Hậu Trần nàyTrí chủ hữu hoài phù địa trục,Tẩy binh vô lộ vãn thiên khiêng trái đất mong phò chúa,Giáp gột sông trời khó vạch mây.Phan Kế Bính dịchVới một lòng ước vọng không bao giờ đạt được là “Muốn ra tay tát cạn Biển Đông”. Có điều là vận của Nhà Lê đã hết. Năm 1802, Gia Long thống nhất đất nước. Người ẩn sĩ đã không sao ẩn được danh mình vào lúc toàn thể non sông đã đổi chủ, vào lúcTrời Đông Phố ào ào gió động,Hội tao phùng đái ủng tân quân.Bùi Kỷ, Văn Tế Tiên Điền Nguyễn DuĐể cuối cùng thấy mình “dật dân bỗng hóa hàng thần lạ thay” hay “Hàng thần lơ láo” và chẳng biết “phận mình ra đâu”. Bị triệu vời với đích danh, Nguyễn Du đã phải ra làm quan với Nhà Nguyễn một cách miễn cưỡng trong nhiều năm ròng rã. Cuối cùng ông đã tự kết liễu đời mình bằng cách đau mà không chịu uống thuốc. Nếu lập một bảng đối chiếu đại cương thời đại Nguyễn Du với thời đại chúng ta hiện tại, ta có thể thấy vô số những điểm tương đồng. Cũng với đất nước bị chia đôi với con Sông Gianh được thay thế bằng Sông Bến Hải. Cũng một xã hội tuy không cường thịnh nhưng những gì các thế hệ trước để lại vẫn còn nguyên vẹn, với những thành trì, cung điện, lăng tẩm, chùa chiền, đền miếu, tập tục, lễ nghi, văn chương đạo đức... mà một dân tộc văn minh phải lấy làm hãnh diện. Cũng với những mốc thời gian then chốt, 1784 và 1787 cho thời Nguyễn Du và 1945, 1975 cho thời hiện tại. Cũng với những đổi thay và đổi đời vĩ đại, khủng khiếp cho một con người bình thường, với những cảnh “thất thế tên rơi, đạn lạc”, “máu tuôn lai láng , xương khô rụng rời” trên mặt đất, hay những trường hợp “đem thân chôn giấp vào vòng kình nghê” trên mặt biển, đặc biệt là của những thành phần xưa kia “phong gấm rủ là”, “màn lan trướng huệ”, “cung quế phòng hoa”. Nhưng ở thời đại chúng ta còn ngang trái, bi thảm hơn nhiều. Người anh hùng đất Bình Định, sau khi diệt Nhà Lê, đã đánh dấu triều đại của mình bằng chiến thắng vĩ đại ở Gò Đống Đa, tiếp đó đã khơi dậy trong lòng dân tộc mình một tinh thần tự tin và tự chủ qua dự định lấy lại Lưỡng Quảng về cho đất nước, do đó đã được một phần dân chúng Bắc Hà chấp nhận. Những kẻ xâm chiếm Miền Nam năm 1975 đã không làm nên điều gì mọi người mong đợi. Trái lại, chiến thắng của họ đã xô đẩy dân tộc Việt Nam đến một tình trạng càng ngày càng tăm tối, tồi tệ hơn. Ở thời đại Nguyễn Du, tuy bất đắc dĩ phải phục vụ tân quân và tân triều, nhưng các sĩ phu Bắc Hà thời ông đã được phục vụ với đầy đủ danh dự như là những quan lại, kể cả quan lại cao cấp của Triều Đình Huế. Ở thời đại của chúng ta, những kẻ hậu duệ của Tố Như Tiên Sinh cũng phải miễn cưỡng ra phục vụ triều đại mới nhưng là phục vụ trong những trại tù khổ sai được những kẻ chiến thắng, giả nhân, giả nghĩa gọi là lao động cải tạo hoặc đem thân ra làm thuê, làm mướn nơi đất khách, quê người để nhà cầm quyền lấy tiền trả nợ, hay lên các vùng kinh tế mới ở với rắn và gió, trong những căn lều không vách... Ở thời đại Nguyễn Du không có những trận đói trong đó nhiều làng một mạng sống không còn để những thành phần chống đối chính quyền đương nhiệm có cơ lợi dụng. Ở thời đại chúng ta không ai có thể quên được Trận Đói Tháng Ba Năm Ất Dậu 1945 khiến hai triệu người bị chết. Ở thời đại Nguyễn Du không có chuyện vu cáo và thanh toán lẫn nhau bằng kết tội nhau là Việt gian, phản động và thủ tiêu nhau vô tội vạ. Ở thời đại Nguyễn Du không có chuyện Tự Vệ Vũ Trang với những cuộn dây thừng để bắt Việt gian, với Công An chận đường bắt cóc mang đi mất tích hay đương đêm vào nhà bắt người mang đi rồi ít ngày sau nạn nhân chỉ còn mình một nơi, đầu một nẻo với một bản án gắn trên ngực, không có chuyện đồng chí con, đồng chí bố, vợ tố cáo chồng, con tố cáo cha, không có Đảng, không có Cách Mạng có quyền sinh sát trong tay để khoan hồng hay bắt người đền tội. Ở thời đại Nguyễn Du không có những cuộc chiến triền miên kéo dài cả ba chục năm mà vẫn chưa hoàn toàn kết thúc với ba, bốn và có thể năm triệu người chết và không biết bao nhiêu triệu người đau khổ. Ở thời Nguyễn Du biến loạn chỉ ảnh hưởng giới hạn trong giới cầm quyền hay lãnh đạo. Ở thời Nguyễn Du chiến tranh chỉ xẩy ra ở kinh đô và một số những địa điểm quan trọng. Ở thời đại chúng ta, chiến tranh xả ra ở khắp các làng xã, các hang cùng ngõ hẻm, thậm chí cả những vùng rừng núi, những thôn bản xa xôi, trước kia rất ít người các miền đồng bằng lui tới. Ở thời đại chúng ta, chiến tranh là chiến tranh toàn diện, không một người dân nào, dù là đàn bà, con trẻ, những kẻ khố rách, áo ôm, những người cùng đinh trong xã hội, bằng cách này hay cách khác, không bị cuốn hút vào cuộc chiến, sau đó là sự cưỡng chiếm miền Nam của người Cộng Sản miền Bắc và cuộc ra đi tị nạn của hàng triệu dân Việt trong suốt hơn bốn chục năm và ảnh hưởng của nó trên toàn cầu, cùng với lối trả thù những người bị kẹt lại một cách vô cùng hiểm độc, dã man, khó có thể tưởng tượng được bởi những người Cộng Sản miền Bắc sau biến cố 30 tháng Tư, 1975. Tất cả đã dẫn tới hai phong trào dời bỏ quê hương mà Phạm Duy, trong bài 1954 Cha Bỏ Quê, 1975 Con Bỏ Nước đã diễn tả bằng những câu hát như Một ngày năm bốn cha bỏ Sơn TâyDắt díu con thơ vô sống nơi Biên HòaDù là xa đó vẫn là nước nhàMột mảnh đất thân yêu gia đình ta. ............ Một ngày bảy lăm con đứng ở cuối đườngLoài quỷ dữ xua con ra đại dươngMột ngày bảy lăm con bỏ nước ra điHai mươi năm là hai lần ta biệt xứGiờ cha lưu đầy ở ngay trên nước taVà giờ con lưu đầy ở đây nơi xứ lạ...Cuối cùng là sự thành hình của Cộng Đồng Việt Nam ở Hải Ngoại với nhiều hứa hẹn sẽ trở thành thành phần thứ hai của Dân Tộc Việt Nam độc lập với thành phần ở trong nước mà tôi gọi là Siêu Quốc Gia Việt Nam của Thiên Niên Kỷ Thứ Ba với Thế Kỷ 21 là thời kỳ chuyển so sánh kể trên nếu chỉ được đặt ra một cách đơn thuần, nói chung, có thể bị cho là không cần thiết, đặc biệt là đối với những người thường lưu tâm đến sự nghiệp của thi hào Nguyễn Du, nói riêng, ai cũng có thể làm được. Nhưng tôi đã lựa chọn nó để trình bày ở đây vì từ trước tới giờ tôi luôn luôn thắc mắc là ở thời Lê Mạt, một thời không có gì đáng gọi là huy hoàng của lịch sử dân tộc, đứng trên bình diện chính trị, ngoại giao hay quân sự , trái lại đó là một thời kỳ đại loạn, thế mà trong thời này lại có nhiều tác phẩm lớn, bất hủ xuất hiện. Thời của chúng ta so với thời Lê Mạt còn tệ hại hơn nhiều. Câu hỏi được đặt ra là liệu rằng trong thời hiện tại đã có những công trình nào đáng kể xuất hiện chưa và trong tương lai liệu có tác phẩm nào xuất hiện không? Nguyễn Du với những tâm sự u uẩn bời bời, chất chứa trong lòng từ nhiều chục năm, sau chuyến đi sứ sang Tầu của ông đã để lại cho hậu thế những áng văn vô giá, bất hủ. Người Việt chúng ta trong thời đại mới cũng có dịp xuất ngoại và xuất ngoại ra nhiều hơn là ra một nước Trung Hoa và lưu lại suốt đời hơn là một thời gian đi sứ ngắn ngủi. Liệu rằng trong những năm, những chục năm sắp tới, điều người ta mong đợi có xảy ra không? Câu hỏi này cho đến nay chưa có câu trả lời, nhưng tôi tin tưởng rằng một khi được tìm tòi sẽ có rất nhiều hy vọng là sẽ có, nhất là ở các anh em trẻ vì anh em vừa được sống, vừa được học hỏi. Thời Nguyễn Du, Tiên Sinh và những người đồng thời với Tiên Sinh chỉ được biết có một nước Tầu. Trong thời đại của chúng ta, chúng ta được biết nhiều hơn một nước Pháp hay một nước Mỹ, một nước Nga hay một nước Tầu. Hơn thế nữa, trong thời đại Nguyễn Du, Nguyễn Du và các cựu thần Nhà Lê khác đã mang những mặc cảm tội lỗi với triều đại cũ, những bạn bè xưa và với chính mình. Những Nhà Nho này đã hơn một lần bị đưa ra làm đề tài chế diễu. Trong thời đại của chúng ta, không thiếu những anh em, bà con của chúng ta mang những tâm sự đau lòng của những kẻ bất đắc dĩ phải đào tẩu, bỏ lại cha mẹ, vợ con, anh em, bạn bè, chiến hữu, thuộc cấp đã từng nhiều năm sát cánh chiến đấu với mình, che chở đùm bọc cho mình và đào tẩu bằng những phương tiện của người bạn cũ mà mình cho là đã phản bội mình, đào tẩu với một ý thức rõ ràng là hành động này sẽ làm cho phần đất mà mình phải bảo vệ sụp đổ mau chóng hơn. Sau đó tất cả đều đã phải tranh đấu, vật lộn để tồn tại, để hướng về tương lai, tương lai cho chính mình, cho con cháu mình và tương lai cho cả tập thể mình với những nỗi lòng không dễ gì bày tỏ cùng ai được, chẳng khác gì những miếng cơm, ngụm nước mà không thiếu gì những bà con vượt biển của chúng ta đã phải nghẹn ngào nuốt nước mắt, xót xa, tủi nhục khi nhận lãnh từ tay đám hải tặc trước đó đã làm hại đời một bài tham luận đăng trên tờ Hành Trình do Nhà Văn Cao Thế Dung chủ trương ở Thủ Đô Washington trước đây, tôi có đưa ra một nhận xét về “Bi thảm tính trong văn hóa Việt Nam” và cho rằng đặc tính này là một trong những đặc tính của văn hóa dân tộc Việt Nam. Nó đã làm cho nền văn hóa của dân tộc ta trở nên vô cùng phong phú, vô cùng sâu sắc và hấp dẫn sau một bề ngoài có vẻ u buồn, thiếu những mầu sắc vui tươi so với nhiều văn hóa khác. Nguyễn Du là một trong những bằng chứng của bi thảm tính đó. Nhưng tác phẩm của ông sở dĩ mang đặc tính ấy và trở nên muôn đời bất hủ là vì nó phản ảnh cuộc đời và thời đại của tác giả, một cuộc đời và một thời đại đầy dẫy những bi thảm và ngang trái. Thời đại và cuộc đời của những người Việt chúng ta thuộc hậu bán Thế Kỷ Thứ Hai Mươi, tiền bán Thế Kỷ 21 này, nếu được diễn tả bởi những thiên tài văn học tương lai hay chưa được khám phá, chắc chắn còn có giá trị hơn gấp bội. Có điều ước vọng là một chuyện, có được hay không lại là một chuyện khác. Đời người quá ngắn ngủi mà những gì người ta ước mong được thấy hay muốn làm thì nhiều, đúng như nhà thơ nổi tiếng của văn học miền Nam và hải ngoại, Tô Thùy Yên, người mới từ giã chúng ta để về nơi miên viễn, đã than trong bài hành bất hủ "Ta Về" của ôngTa về như hạc vàng thương nhớMột thuở trần gian bay lướt quaTa tiếc đời ta sao hữu hạnĐành không trải hết được lòng ta!Và người ta không khỏi không nghĩ tới tâm sự đầy u uẩn của Nguyễn DuBất tri tam bách dư niên hậuThiên hạ hà nhân khấp Tố Như!Ba trăm năm lẻ về sau,Hỏi ai người nhỏ lệ sầu Tố NhưNgười dịch, không rõCòn Tô Thùy Yên thì tuy bề ngoài có vẻ nhẹ nhàng, âm thầm chấp nhận nhưng bề trong không phải là không xót xa, oán hậnTa về một bóng trên đường lớnThơ chẳng ai đề vạt áo phaiSao bỗng nghe đau mềm phế phủMười năm đá cũng ngậm ngùi thay!Với gần mười ba năm tù, Tô Thùy Yên đã phải sống gần hết thời gian đẹp nhất của cuộc đời trong trại tù khổ sai không có án. Hai chữ “mười năm” đã trở thành nỗi ám ảnh không rời đối với ông khiến ông đã nhiều lần nhắc tới trong bài thơ trường thiên ông làm kể trênVĩnh biệt ta mười năm chết dấpChốn rừng thiêng im tiếng nghìn thuMười năm mặt sạm soi khe nướcTa hóa thân thành vượn cổ sơ!Mười năm thế giới già trông thấyĐất bạc màu đi, đất bạc màuMột đời được mấy điều mong ước?Núi lở sông bồi đã lắm khi…Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng độngMười năm, cổ lục đã ai ghi? Mười năm chớp bể mưa nguồn đóNgười thức nghe buồn tận cõi dốc hơi thu lùa nỗi nhớMười năm người tỏ mặt nhau đâyTa nhớ người xa ngoài nỗi năm ta vẫn cứ là kể lại mười năm mộng dữMột lần kể lại để rồi thôiHoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?Mười năm, cây có nhớ người xa?Mười năm con đã già trông thấyHuống mẹ cha, đèn sắp cạn dầuTa về như nước Tào Khê chảyTinh đẩu mười năm luống nhạt cuối cùng thì tác giả đành mượn chén rượu để giải oanChút rượu hồng đây xin rưới xuốngGiải oan cho cuộc biển dâu này!Nguyễn Du may mắn hơn. Thời đại của Tiên Điền tiên sinh chưa có trại tù cải tạo. Không những không bị đi tù, trái lại, ông còn được trịnh trọng mời ra hợp tác với tân triều và lãnh những trách vụ quan trọng ở triều đình, kể cả đi điều, đúng như lời Tản Đà của nửa đầu thế kỷ trước, cuối cùng tất cả chỉ còn làCửa động, đầu non, đường lối cũNghìn năm thơ thẩn bóng trăng Phạm Cao DươngKhởi viết cuối Thu 1982 nhân Ngày kỷ niệm Thi hào Nguyễn Dutại Quận Cam California, Hoa KỳSửa chữa và phổ biến đầu hè 2019
Cha là ông là Nguyễn Nghiễm, sinh ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, tên tự Hy Di, hiệu Nghi Hiên, có biệt hiệu là Hồng Ngự cư sĩ đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ Tể tướng, tức Thượng thư bộ hộ triều Lê. Mẹ là bà Trần Thị Tần 1740 - 1778, con gái một người làm chức Câu kế, quê làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, bà có tài hát xướng. Năm Đinh Hợi 1767, khi Nguyễn Du mới một tuổi, Nguyễn Nghiễm được thăng Thái tử Thái bảo, Hàm tòng nhất phẩm, tức Xuân Quận công nên Nguyễn Du thời đó sống trong giầu sang phú thi hào Nguyễn Giáp Ngọ 1774, cha Nguyễn Du được phong chức Tể tướng, cùng Hoàng Ngũ Phúc đi đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Từ thời gian này Nguyễn Du chịu nhiều mất mát Năm 1775 anh trai cùng mẹ là Nguyễn Trụ sinh 1757 qua đời, Năm 1776 Bính Thân cha Nguyễn Du qua đời, Năm 1778 Mậu Tuất bà Trần Thị Tần, mẹ Nguyễn Du qua đời. Cũng trong năm này, anh thứ hai của Nguyễn Du là Nguyễn Điều sinh năm 1745 được bổ làm Trấn thủ Hưng Canh Tý 1780, Nguyễn Khản là anh cả của Nguyễn Du đang làm Trấn thủ Sơn Tây bị khép tội mưu loạn trong Vụ án năm Canh Tý, bị bãi chức và bị giam ở nhà Châu Quận công. Lúc này Nguyễn Du được một người thân của Nguyễn Nghiễm là Đoàn Nguyễn Tuấn đón về Sơn Nam Hạ Nam Định nuôi ăn học. Năm Nhâm Dần 1782 Trịnh Sâm mất, Kiêu binh phế Trịnh Cán, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa. Hai anh của Nguyễn Du là Nguyễn Khản được làm Thượng thư bộ Lại tức Toản Quận công, còn Nguyễn Điều làm Trấn thủ Sơn Quý Mão 1783 Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, đậu Tam trường Tú tài. Ông lấy vợ là con gái Đoàn Nguyễn Thục và ông được tập ấm chức Chánh thủ hiệu quân hùng hậu của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên. Cũng trong năm này anh cùng mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Đề sinh 1761 đỗ đầu kỳ thi Hương ở điện Phụng Thiên cử Nhân và Nguyễn Khản đầu năm thăng chức Thiếu Bảo, cuối năm thăng chức Tham tụng. Tháng 2 năm 1784, kiêu binh nổi dậy đưa hoàng tôn Lê Duy Kỳ lên làm thái tử. Tư dinh của Nguyễn Khản ở phường Bích Câu, Thăng Long bị phá, Nguyễn Khản phải trốn lên ở với em là Nguyễn Điều đang là trấn thủ Sơn Tây. Đến năm 1786 thì Nguyễn Khản bị mắc bệnh rồi chết ở Thăng Long. Năm 1789 Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh. Đoàn Nguyễn Tuấn hợp tác với nhà Tây Sơn, giữ chức Thị lang bộ Lại. Lúc này Nguyễn Du về ở quê vợ Quỳnh Côi, Thái Bình.Tháng mười, năm Tân Hợi 1791, anh thứ tư cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh do chống Tây Sơn nên bị bắt và bị giết, dinh cơ họ Nguyễn ở Tiên Điền Hà Tĩnh bị Tây Sơn phá hủy. Năm 1793 Quý Sửu, Nguyễn Du về thăm quê Tiên Điền và đến cuối năm ông vào kinh đô Phú Xuân thăm anh là Nguyễn Đề đang làm thái tử ở viện cơ mật và anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn. Năm 1794 Giáp Dần, Nguyễn Đề được thăng Tả phụng nghi bộ Binh và vào Quy Nhơn giữ chức Hiệp tán nhung vụ. Đến năm 1795 Nguyễn Đề đi sứ sang Yên Kinh dự lễ nhường ngôi của vua Càn Long nhà Thanh, đến năm 1796 trở về được thăng chức Tả Đồng Nghị Trung Thư Đông năm Bính Thìn 1796, Nguyễn Du trốn vào Gia Định theo Nguyễn Ánh, nhưng bị Quận công Nguyễn Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ An. Sau khi được tha ông về sống ở Tiên Điền. Trong thời gian bị giam ông có làm thơ My trung mạn hứng Cảm hứng trong tù. Mùa thu năm Nhâm Tuất 1802, Vua Gia Long diệt nhà Tây Sơn. Nguyễn Du ra làm quan Tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam nay thuộc tỉnh Hưng Yên. Mấy tháng sau thăng Tri Phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng nay thuộc Hà Nội . Năm 1803, Nguyễn Du được cử lên ải Nam Quan tiếp sứ nhà Thanh sang phong sắc cho vua Gia Long. Năm 1805 Ất Sửu ông được thăng Đông Các Đại Học Sĩ hàm Ngũ phẩm, tức Du Đức hầu và vào nhận chức ở kinh đô Phú Xuân. Năm 1807 được cử làm giám khảo kỳ thi Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm 1808 ông xin về quê nghỉ. Năm 1809 ông được bổ chức Cai bạ hàm Tứ phẩm ở Quảng Bình. Năm Quý Dậu 1813 ông được thăng Cần chánh điện học sĩ và được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh. Năm 1814 ông đi sứ về, được thăng Hữu tham chi bộ Lễ hàm Tam phẩm. Năm Bính Tý 1816, anh rể Nguyễn Du là Vũ Trinh vì liên quan đến vụ án cha con Tổng trấn Nguyễn Văn Thành nên bị đày vào Quảng 1820 Canh Thìn Gia Long qua đời Minh Mạng nối ngôi. Lúc này Nguyễn Du được cử đi làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong, nhưng chưa kịp đi thì ông bị bệnh dịch chết ngày mồng 10 tháng 8 năm Canh Thìn 18-9-1820 thọ 54 tuổi. Mộ ông nguyên táng tại làng An Ninh, huyện Hương Trà gần sau chùa Thiện Mụ. Năm Giáp Thân 1824, người ta cải táng ông và đưa về quê nhà Tiên Điền, Hà 1965 ông được Hội đồng hòa bình thế giới của UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới và quyết định kỉ niệm trọng thể nhân dịp 200 năm năm sinh của Du đã sống một cuộc đời bi kịch. Xuất thân trong một gia đình quý tộc giàu sang, thế mà cơn lốc lịch sử đã hất đổ hết lầu son gác tía, đẩy ông vào cuộc đời sống lay lắt, lưu lạc, tha hương. Nhưng bi kịch lớn nhất là từng khao khát một sự nghiệp vẫy vùng cho phỉ chí, mà rút cuộc phải chấp nhận cuộc đời triền miên buồn chán, không có một hoạt động say sưa và nhất quán vì lý tưởng nào cả. Nguyễn Du đã sống như một người dân thường giữa thế gian và nhờ thế ông thông cảm sâu xa với mọi kiếp người bị đầy đọa. Nguyễn Du nhìn đời với con mắt của một người đứng giữa dông tố cuộc đời và điều đó khiến tác phẩm của ông chứa một chiều sâu chưa từng có trong văn học Việt Nam trung Du đã để lại một di sản văn chương đồ sộ với những tác phẩm kiệt xuất, ở thể loại nào ông cũng đạt được sự hoàn thiện ở trình độ cổ chữ Hán Nguyễn Du có 3 tập thơ Thanh Hiên thi tập gồm 78 bài làm lúc ông đang sống lẩn tránh ở quê vợ và quê nhà Nghi Xuân 1786 – 1804. Nam trung tạp ngâm gồm 40 bài là tập thơ sáng tác lúc ra làm quan với triều Nguyễn 1805 – 1813. Bắc hành tạp lục gồm 132 bài làm lúc phụng mệnh vua dẫn đầu đoàn đi sứ Trung Quốc 1813 – 1814, tổng cộng 250 bài. Thơ chữ Hán có những kiệt tác như Đọc Tiểu Thanh kí, Bài ca những điều trông thấy Sở kiến hành, Bài ca người gảy đàn đất Long Thành Long Thành cầm giả ca, Người hát rong ở Thái Bình Thái Bình mại ca giả, Chống lại bài “ Chiêu hồn” Phản “chiêu hồn”…Thơ chữ Nôm Nguyễn Du có hai kiệt tác Truyện Kiều Đoạn trường tân thanh gồm 3254 câu thơ lục bát và Văn tế thập loại chúng sinh gồm 184 câu viết theo thể song thất lục bát. Ngoài ra, ông còn có một số tác phẩm đậm chất dân gian như Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu và bài vè Thác lời trai phường Du là nhà thơ nhân đạo lỗi lạc với tấm lòng sâu sắc, bao dung, đồng thời ông đã dùng ngòi bút phê phán hiện thực mạnh mẽ, sắc bén. Những sáng tác của Nguyễn Du là sự kết tinh những thành tựu chữ Hán và chữ Nôm của dân tộc, tổng hợp tinh hoa của nhiều thể loại văn học để sáng tác Truyện Kiều. Nguyễn Du đã có công lớn trong việc đưa ngôn ngữ văn học Tiếng Việt lên trình độ điêu luyện, cổ điển. Từ đó ông đáng được suy tôn danh hiệu Đại thi hào dân tộc và Danh nhân văn hóa thế
thời đại nguyễn du