thuyết minh về tháp cổ vĩnh hưng

Tài liệu thường được dẫn ra làm cơ sở lý giải cho nguồn gốc của Tháp Rùa là cuốn Cổ tích và thắng cảnh Hà Nội của Doãn Kế Thiện và cuốn Lịch sử Thủ đô Hà Nội (Trần Huy Liệu chủ biên). Sang thời Lê Trung Hưng (khoảng thế kỷ 17-thế kỷ 18) thì chúa Trịnh cho Đây cũng là tên của ba vị thần. Kỳ quan của thế giới cổ đại này được xây dựng vào khoảng năm 2575-2454 trước Công Nguyên. 16. Khu thương mại La Mã cổ đại. Công trình di tích cổ này nằm ở Rome, Italy. Vào thế kỷ thứ 7, nơi đây là nơi chôn cất của người Etruscan. Tin tức 24h về bóng đá, thể thao, giải trí. Tin tức online 24 giờ, tình hình Việt Nam(VN), thế giới. Công ty Cổ phần Quảng cáo Trực tuyến 24H Trụ sở: Tầng 12, Tòa nhà Geleximco, 36 Hoàng Cầu, Phường Ô Chợ Dừa, Quận Đống Đa, TP Hà Nội. Tel: (84-24) 73 00 24 24 hoặc (84-24 Kỹ thuật xây dựng và hệ thống điêu khắc tháp đều cho ta đọc được những thông tin về trình độ phát triển, mức độ hưng thịnh, mức độ chuyên chế, niềm tin tôn giáo… của vương triều đó. Vì vậy ta cũng có thể dễ dàng hiểu được các vua Chăm xưa đã xây dựng Danh mục. 1 Tour Nha Trang 1 ngày 2022. 1.1 1 ngày ở Nha Trang có thể đi những đâu?; 2 Danh sách các tour Nha Trang 1 ngày; 3 1. Tour Bình Ba Nha Trang 1 ngày. 3.1 Lịch trình tham quan tour Bình Ba Nha Trang; 3.2 Thời gian khởi hành, giá vé tour Bình Ba; 4 2. Tour đảo Bình Hưng 1 ngày. 4.1 Lịch trình tham quan tour Bình Hưng 1 ngày Nhật báo Thần chung số 281 ra ngày 27.12.1929, ở mục "Chính trị" đăng bài Sách và học trò của chủ bút báo này Nguyễn Văn Bá, đưa tin sở giáo huấn Nam Kỳ đang chọn cử một giáo chức người Việt ra Hà Nội để chọn sách cho học trò Nam Kỳ dùng. Sở dĩ có việc này vì Vay Tien Nhanh Home Credit. Tháp cổ Vĩnh Hưng tọa lạc tại ấp Trung Hưng 1B, xã Vĩnh Hưng A, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu cách trung tâm thành phố khoảng 20 km. Theo quốc lộ 1A, từ Bạc Liêu hướng Cà Mau 5km, đến cầu Sập, rẽ theo lối đi chợ Vĩnh Hưng là đến tháp Vĩnh Hưng. Đây không chỉ là một kiến trúc tháp thuộc nền văn hóa Óc – Eo còn sót lại duy nhất ở Tây Nam bộ, mà trong cuộc khai quật tại tháp Vĩnh Hưng, các nhà khảo cổ học còn thu được nhiều hiện vật hết sức quí giá với nhiều tượng đá, đồng, gốm, đá quí … đánh dấu một giai đoạn tồn tại và phát triển khá dài từ thế kỷ IV đến thế kỷ XIII sau công nguyên của tháp cổ Vĩnh Hưng. Cổng vào di tích Tháp Vĩnh Hưng đã trải qua nhiều lần khảo sát, năm 1911 học giả người Pháp Lunet de Lajonquiere đã phát hiện ra dưới tên gọi là tháp Trà Long. Năm 1917 Henri Parmentier đã đến khảo sát khu vực này và thông báo trong tập san của trường Viễn Đông Bắc Cổ Số XVII, tập 6 năm 1917 trang 48-49. Trong báo cáo này dưới tên gọi là tháp Lục Hiền ông thống kê một số hiện vật được phát hiện trong và ngoài tháp. Đặc biệt, trong số ấy có tấm bia tìm thấy trong ngôi chùa Phước Bửu Tự ở cạnh tháp khắc chữ Phạn, ghi rõ tháng Karhila, năm 814, tương ứng với năm 892 sau công nguyên, và tên của vua Yacovan-Man thế kỷ thứ IX. Các nhà khảo cổ đã xác định tháp được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ 9 sau Công nguyên để thờ vị vua tên là Khmer Yacovar – Man. Ngôi tháp có khối hình trụ đứng sừng sững Vào tháng 5/1990, các nhà khảo cổ thuộc Viện Khoa học xã hội TP. HCM nay là Viện Phát triển bền vững vùng Nam bộ phối hợp với Bảo tàng tỉnh Minh Hải đã đến khảo sát và đào một hố thám sát, phát hiện một số hiện vật như đầu tượng thần, minh văn, bàn nghiền, Linga – Yoni… Tiếp tục hành trình làm sáng rõ giá trị của một di tích cấp quốc gia, cũng như nhằm phục vụ công tác trùng tu, tôn tạo, chống xuống cấp di tích tháp Vĩnh Hưng, trong năm 2002 và tiếp sau đó là năm 2011, Trung tâm Nghiên cứu khảo cổ phối hợp với Bảo tàng tỉnh Bạc Liêu khai quật xung quanh tháp. Những đợt khai quật này tiếp tục những việc như làm lộ diện chân móng tháp, giải quyết những vết tích chìm trong lòng đất để có những giải pháp trùng tu, tôn tạo ngôi tháp nhằm phát huy giá trị của di tích. Nhiều hiện vật có giá trị đã được phát hiện trong những đợt khảo sát như tượng Nữ thần được tạc theo phong cách truyền thống tượng tròn Óc Eo Phù Nam, bàn tay phải của “Tượng thần”, một số Linga – Yoni, đồ gốm dùng trong sinh hoạt và đặc biệt là bộ tượng đồng được các nhà khảo cổ học đánh giá là bộ sưu tập tượng độc đáo, là “bảo vật quốc gia”, trong đó có một số tượng độc bản có giá trị rất cao. Năm 2011, di tích tháp Vĩnh Hưng được trùng tu tôn tạo gồm các hạng mục nhà trưng bày, nhà bia, nhà bảo vệ, hàng rào và một số hạng mục khác nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của di tích. Cửa Tháp quay về hướng Tây Từ xa, trông ngôi tháp có khối hình trụ đứng sừng sững giữa rừng cây, với dáng vẻ cổ kính – một phần bị rong rêu phủ, còn lại nhiều chỗ gạch loang lỗ khuyến sâu vào gần bên trong lòng Tháp bởi thời gian dài chịu ảnh hưởng của mưa nắng. Tỉnh Bạc Liêu phải ra tận miền Đông tìm đất mang về nung thành những viên gạch để phục chế một phần phía trước đã bị hư hỏng. Toàn bộ 03 mặt Đông – Nam – Bắc được xây bằng gạch Tháp cổ có kiến trúc khá đơn giản và mộc mạc trên một doi đất có diện tích khoảng 100m, cửa Tháp quay về hướng Tây, bình diện chân Tháp hình chữ nhật với hai cạnh là 5,6m và 6,9m. Chiều cao của Tháp là 8,2m tính từ nền Tháp. Toàn bộ 03 mặt Đông – Nam – Bắc được xây bằng gạch. Tường của chân Tháp dày 1,8m, càng lên cao độ dày của tường càng mỏng, vách tường được dựng nghiêng dần lên phía đỉnh tạo thành vòm cuốn. Phía đỉnh tạo thành vòm cuốn Trải qua bao biến thiên của lịch sử, điều gì đã tạo nên một tháp cổ có niên đại hàng nghìn năm tuổi? Theo nhiều nhà khoa học, người Khơme cổ đã dùng một kỹ thuật xây dựng đặc biệt, họ đã dùng một loại keo thực vật để kết dính các viên gạch với nhau, mà không cần dùng đến các chất liệu xây dựng như xi măng, hay vôi vữa như bây giờ. Tháp được xây bằng hai loại gạch có màu sắc khác nhau. Từ chân tháp đến độ cao 4m là gạch đỏ và từ 4m trở lên trên được dùng gạch trắng. Nhìn vào từ cửa chính là bộ Linga – Yoni tượng trưng cho âm dương hòa hợp được phục chế lại. Bộ Linga – Yoni nguyên gốc đang được gìn giữ tại bảo tàng. Bộ Linga và Yoni bằng đá tượng trưng cho âm và dương, trời và đất trong tháp cổ. Từ những giá trị độc đáo được ghi nhận, Tháp cổ Vĩnh Hưng đã được Bộ VH-TT nay là Bộ VH-TT&DL công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia từ năm 1992. Nếu có dịp du lịch Bạc Liêu, bạn nhớ dành thời gian ghé thăm tháp cổ Vĩnh Hưng hiểu rõ hơn về một nền văn minh thời cổ đại. Cảnh vật ở đây thật hấp dẫn du khách, ngoài công trình kiến trúc tháp du khách có thể hít thở không khí trong lành đượm mùi hương hoa đồng nội, dõi mắt bao quát cánh đồng ruộng mênh mông phì nhiêu của một vùng đất đã được ngọt hóa. Thuyết minh Hồi trống Cổ Thành Thuyết minh Hồi trống Cổ Thành là đưa những thông tin về tác giả, tác phẩm về nội dung cũng như những sự kiện diễn ra trong tác phẩm một cách cụ thể, chính xác theo góc nhìn khách quan, khoa học. Thuyết minh Hồi trống Cổ Thành nên hạn chế vận dụng các biện pháp so sánh liên tưởng nhằm đảm bảo tính xác thực cho tác phẩm, các thông tin và số liệu sử dụng phải có căn cứ, xác đáng. Thuyết minh Hồi trống cổ thành Mở bài thuyết minh Hồi trống Cổ Thành Hồi trống Cổ Thành thuộc hồi thứ 28 trích trong Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung. La Quán Trung sinh năm 1330 mất năm 1400, ông sinh ra và lớn lên trong khoảng cuối thời nhà Nguyên đầu thời nhà Minh. Ông là người có hiểu biết sâu rộng lại chịu tác động của tư tưởng nho giáo, thế nên tính cách của ông có phần rạch ròi, yêu ghét rõ ràng. Các sáng tác của ông thấm nhuần tư tưởng Nho giáo, với ông, tư tưởng trung quân ái quốc là điều tất yếu được xem trọng. Ông nhìn đời với một con mắt tinh tường và sâu sắc, chính bởi sự nhận thức đúng đắn về xã hội cũng như các vấn đề chính chính trị nhưng lại không thể tự mình thực hiện, vậy nên ông gửi gắm vào tác phẩm. Hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu kĩ càng hơn về đoạn trích mang tên Hồi trống Cổ Thành. Xem thêm Dàn ý phân tích Hồi trống Cổ Thành có gợi ý Phân tích hồi trống Cổ Thành chi tiết, hay nhất Thân bài Trước khi đến với nội dung đoạn trích, chúng ta cùng điểm qua vài nét về tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa. Tác phẩm được viết dựa trên những sự kiện lịch sử có thật diễn ra, mà nổi bật hơn hết là phản ánh sự tương tranh giữa ba tập đoàn phong kiến lớn Ngụy, Thục, Ngô. Tác phẩm này mang giá trị lịch sử và quân sự to lớn, vạch trần tội ác và sự tàn bạo của giai cấp thống trị với với con dân, đẩy họ vào bần cùng, bế tắc, do đó trong họ luôn ẩn chứa một ước mơ, khao khát về những vị vua hiền tướng giỏi, đủ sức đủ tài để có thể lãnh đạo, giải thoát họ ra khỏi cảnh áp bức, khốn cùng. Hồi trống Cổ Thành là tên gọi do người biên soạn đặt, đoạn trích không phải toàn bộ hồi 28 mà là một phần giữa được trích ra, với hai câu thơ mở đầu “ Chém Sái Dương anh em hòa giải Hồi Cổ Thành tôi chúa đoàn viên”. Ở Tam Quốc diễn nghĩa, có rất nhiều nhân vật anh hùng song tiêu biểu phải nhắc đến Quan Công và Trương Phi, hai nhân vật này là hai nhân vật đóng vai trò trung tâm trong đoạn trích Hồi trống Cổ Thành. Đoạn trích thuật lại cuộc hội ngộ, đoàn tụ và giải quyết hiềm khích giữa hai anh em Quan Công và Trương Phi, đồng thời đề cao lòng trung nghĩa và tài năng của cả hai. Quan Công nổi tiếng tài ba Đoạn trích được chia thành ba phần chính tương thích với ba giai đoạn, phần một là cuộc gặp mặt giữa Quan Công và Trương Phi, phần hai là diễn biến cũng là cao trào xung đột, mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm, tiếp nối phần hai là phần ba mâu thuẫn được giải quyết, anh em đoàn tụ. Đoạn trích kể về cuộc chạm tráng đầy kịch tính giữa Quan Công và Trương Phi đương lúc cả hai đang xảy ra mâu thuẫn. Quan Công trên đường hộ tống hai người chị dâu đi tìm Lưu Bị cần vượt qua các cửa ải của các tướng giặc Tào, vì Tào Tháo suy tính Quan Công là người hữu dụng muốn giữ lại dùng cho sau này nên không cấp giấy phép cho Quan Công qua ải, nhưng cũng không cho người truy bắt. Trước tình thế tiến thoái lưỡng nang, Quan Công quyết định mở cho mình một con đường máu, giết sạch các tướng giặc ở năm ải. Đến trước Cổ Thành, ông nghe ngóng được Trương Phi – người em kết nghĩa đang ở đó, ông vui mừng khôn xiết, những tưởng sẽ có cuộc đoàn viên sum họp nhưng Trương Phi vốn bản tính đa nghi, nghĩ rằng Quan Công ăn ở hai lòng đến bắt mình nộp cho Tào Tháo; mặc kệ Quan Công và hai người chị dâu phân trần, Trương Phi quyết không mở cửa thành, buông lời mắng nhiếc, phỉ báng còn dọa đánh Quan Công. Đúng lúc đó, tướng giặc Tào là Sái Dương mang quân đến, điều này càng làm mối nghi ngờ của Trương Phi tăng thêm, không biết làm cách nào để giải thích cho em, Quan Công hứa chặt đầu Sái Dương để chứng minh mình trong sạch. Thấy Quan Công quả quyết vậy, Trương Phi đưa ra điều kiện sau ba hồi trống, Quan Công phải chặt được đầu Sái Dương thì mới tin. Trương Phi vừa đánh lên hồi trống đầu tiên, Sái Dương đã đầu rơi xuống đất, thấy vậy Trương Phi nguôi giận, cho phép Quan Công cùng hai người chị dâu vào thành; sau khi nghe cả ba phân trần, Trương Phi hiểu rõ đầu đuôi ngọn ngành mọi chuyện, rỏ nước mắt khóc, cúi lạy Quan Công. Cổ Thành cũng chính là cửa ải thứ sáu mà Quan Công phải vượt qua, đây là cửa ải hiểm hóc nhất thử thách lòng trung nghĩa. Nếu ở năm cửa ải trước, kẻ thù được xác định trước mắt là tướng giặc, Quan Công sẽ dễ dàng đưa ra quyết định diệt trừ, dù có hiểm nguy, chông gai nhưng nó chẳng là gì so với nỗi oan mà Quan Công đang phải chịu, bởi ông là một vị chủ tướng vì thế oan tình của ông cũng có phần đặc biệt. Rõ ràng là người ngay thẳng, cương trực nhưng trước sự nghi oan của người em kết nghĩa, Quan Công phải nhún nhường để thanh minh, ông còn cầu cứu hai người chị dâu nhờ phân trần hộ mình. Không phải Quan Công không đủ sức phá thành vượt ải, mà nói một cách chính xác hơn, Quan Công coi trọng lòng trung nghĩa, ông không thể coi người em kết nghĩa là kẻ thù cho được. Người đời gọi ông là người tuyệt nghĩa, song mấy ai hay chữ nghĩa cũng có hai mặt bao gồm trung nghĩa và tín nghĩa, trong trung nghĩa ai cũng biết đến là trung quân ái quốc, nhưng còn phần tín nghĩa với anh em, bạn bè cũng không nên xem nhẹ. Qua đoạn trích trên tác giả muốn người đọc thấy được tài năng cũng như bản lĩnh của Quan Công, một người luôn cẩn trọng với lòng trung nghĩa tuyệt đối. Đối lập với đó là tính cách nóng nảy, hấp tấp của Trương Phi. Tác giả muốn dùng Quan Công để làm nền nhằm để tính cách Trương Phi được bộc lộ một cách rõ ràng nhất có thể. Mặc dù hai tính cách có phần đối lập nhưng xét cho cùng họ đều là những người tài, mong muốn cống hiến sức mình cho đất nước vậy nên tác giả không biểu thị thái độ phê phán hay coi thường bất kì ai mà bằng lời nói và hành động biểu thị rõ nét tính cách của họ. “Hồi trống” gợi lên không khí chiến trận kịch tính làm nên đỉnh điểm cuộc xung đột giữa hai anh em Quan Công và Trương Phi, nhưng cùng với đó mâu thuẫn giữa Quan Công và Sái Dương cũng đồng thời được phản ánh, tuy chỉ là mâu thuẫn thứ yếu trong cuộc xung đột chính nhưng chúng ta không thể phủ nhận sự góp phần của nó giúp cao trào được đẩy lên đỉnh điểm, nó cũng chính là chiếc chìa khóa mở ra nút thắt mâu thuẫn. Hồi trống là sự thách thức các bậc trượng phu, nó như một chướng ngại bắt buộc vượt qua để làm nên chiến tích, ở đây hồi trống chính là công cụ mà quan tòa – Trương Phi dùng để phán xét Quan Công trung thành hay phản bội, ba hồi trống là ba cơ hội dành cho Quan Công. Và ba hồi trống cũng là dấu hiệu cho sự hóa giải mọi hiềm khích giữa hai anh em, là ba hồi trống đoàn tụ gia đình. Với lời kể hấp dẫn, lôi cuốn, đoạn trích khiến người đọc như chính tai nghe mắt thấy tất thảy sự việc diễn ra, chúng trở nên sinh động một cách lạ kỳ. Hồi trống Cổ Thành có kết cấu hoàn chỉnh như một vở kịch chính thống hơn là một câu chuyện. Thay vì tác giả chỉ ra tính cách cũng như áp đặt cho nhân vật một tính cách một hình tượng đặc trưng thì La Quán Trung lại lựa chọn để nhân vật tự bộc lộ tính cách cũng như bản lĩnh thông qua lời nói và hành động, điều này cho thấy tác giả vô cùng thông minh bởi cách này giúp nhân vật trở nên thật và có hồn hơn. Đọc qua đoạn trích tự bản thân người đọc hình dung được hai bức tượng đài sừng sững về lòng trung nghĩa; sự chân thành có ở hai anh em Quan Công và Trương Phi. Trương Phi - vị mãnh tướng tài ba nhưng nóng nảy Nói về nghệ thuật chúng ta không thể bỏ qua cách tạo dựng tình huống truyện có cao trào và đầy kịch tính của tác giả. Cao trào của truyện được lồng ghép vào đó nhiều tình tiết hấp dẫn, nhất là các mâu thuẫn có mối liên hệ với nhau, chính mâu thuẫn này làm nền để bật lên mâu thuẫn kia và ngược lại, chúng tác động nhau theo nhiều cách nhưng dù ở cách nào đi chăng nữa, nhờ có chúng cao trào mới được đẩy lên một cách đỉnh điểm thỏa mãn nhu cầu người đọc. Việc chọn lựa những chi tiết đưa vào truyện cũng là một trong các yếu tố góp phần làm nên thành công của Hồi trống Cổ Thành. Kết bài Tác phẩm Hồi trống Cổ Thành trích trong hồi 28 Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung thực sự là bức tranh lịch sử, bức tranh thời đại dựng nên bằng ngôn từ. Dù chủ đề được lựa chọn là chiến tranh là trận mạc, là sự tranh đấu giữa các triều đại song song đó nó vẫn hàm chứa những bài học quý báu về cách làm người. Hơn hết, nó thể hiện tư tưởng Nho giáo của người phương Đông về nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, tất cả đều được bộc lộ thông qua các nhân vật. Ngoài giá trị lịch sử to lớn, tác phẩm này của La Quán Trung còn được xem là binh pháp cơ bản, là nghệ thuật đánh trận dụng binh được vận dụng trong cả thời đại ngày nay, bấy nhiêu đó đủ cho chúng ta thấy được sự tồn tại vượt thời gian cũng như sức ảnh hưởng to lớn mà tác phẩm này mang lại. Đây là bài viết cụ thể, cung cấp các luận điểm luận cứ của dạng bài thuyết minh về một tác phẩm văn học. Mong rằng nó sẽ giúp ích cho các bạn trong quá trình học môn Ngữ Văn. Hãy liên tục cập nhật những bài viết mới để có cho mình nhiều hơn cách xử lý các dạng đề bài khác nhau bạn nhé! “Đây là ngôi đền tháp thuộc về nền Văn hóa Óc Eo duy nhất còn sót lại ở đồng bằng sông Cửu Long” – Đỗ Lệnh Hùng Tú, người nhiều năm nghiên cứu và giảng dạy văn hóa Nam bộ đã giới thiệu ngay khi chúng tôi tới thăm ngôi đền tháp độc đáo được phát hiện năm 1911 này. Đứng trước ngôi đền tháp cổ, chúng tôi ngỡ như nó mới được ông Lunet de Lajonquiere, người Pháp phát hiện ra. Nghĩa là ngôi đền tháp vẫn đứng sừng sững mà “đơn côi” giữa màu xanh của cây, của lúa. Theo lời kể, hồi phát hiện ra ngôi đền này, cả khu vực quanh đây đều ngập nước, chỉ trên một gò đất nổi lên giữa mênh mông ấy là cây lá rậm rạp che khuất mọi vật. Nhà nghiên cứu người Pháp đã linh cảm rằng bên trong sự rậm rạp kia là một thứ gì đó rất đáng khám phá. Và thế là ông cùng đồng sự kiên trì vạch lá phát cây. Một ngôi đền được xây bằng gạch nung đã hiện ra. Ông đặt tên là tháp Trà Long. Đến năm 1917, một nhà nghiên cứu người Pháp khác tên là Henri Parmentier tiếp tục khảo sát và công bố kết quả trong tập san của Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp với tên gọi mới là tháp Lục Hiền. Tháp cổ Vĩnh Hưng hiện nay. Đỗ Lệnh Hùng Tú giải thích thêm cho chúng tôi sau khi tôi có ý thắc mắc vì sao ở vùng đồng bằng sông Cửu Long lại đã từng có và tồn tại một nền văn hóa cổ như vậy. Xưa kia vùng đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất “Thủy Chân Lạp”, có nghĩa là vùng đất ngập nước của nhà nước Chân Lạp. Ban đầu Chân Lạp là một nhà nước chư hầu của nhà nước Phù Nam ở phía Bắc, tức là vùng Nam Trung bộ hiện nay. Nhưng chỉ trong vòng 60 năm sau đó, nhà nước Chân Lạp này đã giành được độc lập và dần dần lấn lướt nhà nước Phù Nam. Đến thế kỷ 6 thì họ đã xâm chiếm Phù Nam. Cuối cùng, trong thế kỷ 7 nhà nước Chân Lạp đã xâm chiếm toàn bộ Phù Nam”. Đỗ Lệnh Hùng Tú nói đến đấy thì dừng lại, ông nhìn vẻ mặt vẫn còn chưa nguôi thắc mắc của chúng tôi, rồi nói tiếp “Cái hay là nhà nước Chân Lạp tuy thôn tính nhà nước Phù Nam nhưng họ lại hấp thu nền văn hóa Phù Nam. Mà văn hóa Óc Eo là một nền văn hóa có nguồn gốc bản địa, chủ nhân của nó là những cư dân Phù Nam. Và văn hóa Phù Nam chịu ảnh hưởng tín ngưỡng Bà la môn truyền từ Ấn Độ tới”. Bàn mài thuốc cổ. Tháp cổ Vĩnh Hưng được gọi như hiện nay bởi các nhà khoa học Việt Nam đã đặt tên theo địa danh mà ngôi đền tháp hiện hữu – xã Vĩnh Hưng A, thuộc huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Tháp cổ Vĩnh Hưng xưa kia có lẽ không đơn lẻ mà là cụm kiến trúc tín ngưỡng với nhiều tháp hoặc nhiều khối nhà, là nơi các tín đồ đạo Bà la môn thờ linh vật phồn thực theo tín ngưỡng của mình. Bên trong lòng tháp cổ Vĩnh Hưng chúng tôi được mục sở thị hai linh vật của tín ngưỡng đạo Bà la môn, đó là linh vật Linga sinh dục nam và linh vật Yoni sinh dục nữ. Đấy đều là hai linh vật có tính phồn thực mà người theo đạo Bà la môn rất tôn trọng. Dĩ nhiên khi tạc ra nó người xưa đã đạt tới độ nghệ thuật và gạt bỏ được sự dung tục. Chúng tôi sau khi đã quan sát thật kỹ bên trong, bên ngoài của Tháp cổ Vĩnh Hưng, dĩ nhiên cũng chụp kha khá các kiểu ảnh, thì được anh Đặng Văn Khoa, cán bộ Ban quản lý các khu di tích và danh thắng tỉnh Bạc Liêu, hiện là người trông coi kiêm thuyết minh viên di tích Tháp cổ Vĩnh Hưng mời vào tham quan nhà trưng bày hiện cổ vật tháp Vĩnh Hưng. Cũng như các ngôi đền tháp cổ khác, tháp cổ Vĩnh Hưng được xây dựng dạng gạch nung. Cho đến giờ giới khoa học vẫn chưa thể nói chắc chắn được rằng Tháp Vĩnh Hưng được xây dựng bằng gạch nung trước hay xây dựng xong mới nung? Tuy nhiên, dấu ấn kiến trúc cổ xưa bao giờ cũng là “bí mật lịch sử” để người đời sau phải “lao tâm khổ tứ” tìm lời giải thích. Anh Đặng Văn Khoa chỉ tay vào từng hiện vật khảo cổ đang được trưng bày trong Nhà trưng bày. Đây là một chiếc bàn mài thuốc bằng đá, nhìn thoáng biết ngay chiếc bàn mài thuốc này giống hệt những chiếc thuyền tán thuốc bắc bằng đồng của những thầy lang đông y. Anh Khoa cho biết thêm “Căn cứ vào bàn mài thuốc bằng đá này cho thấy từ rất lâu những cư dân cổ đã biết công dụng của cây lá thuốc và biết cách bào chế thuốc để chữa bệnh. Điều đó cũng cho thấy người xưa đã có kỹ năng, kỹ nghệ trong sản xuất ra những thứ thuốc có nguồn gốc từ chính mảnh đất họ sinh sống. Cổ vật trong nhà trưng bày. Ngoài công cụ bằng đá, các nhà khảo cổ cũng đã tìm thấy ở Tháp cổ Vĩnh Hưng nhiều vật dụng được làm bằng gốm. Điều này không có gì ngạc nhiên bởi người xưa đã biết cách nung gạch xây dựng tháp tinh vi đến nỗi chúng ta hiện nay vẫn lắc đầu thán phục. Chúng tôi đã được xem những chiếc bình đựng nước có vòi rót chẳng khác gì những chiếc ấm tích pha chè. Hẳn người xưa đã biết cách tích trữ nước sạch hoặc nước đun sôi để sử dụng hàng ngày. Bên cạnh đó là những chiếc hũ đáy tròn để đựng chứa nước, tất cả đều bằng gốm, chứng tỏ công nghệ sản xuất thủ công nghiệp với kỹ nghệ bàn xoay đã có ở vùng đất này từ rất sớm. Rồi còn những viên gạch dùng để trang trí trong xây dựng có hình giống chiếc lá đề. Những vật dụng trang trí khác như những đầu trụ bằng gốm. Ở một gian trưng bày khác chúng tôi đã thấy những dụng cụ lao động sản xuất, đặc biệt là đồ trang sức được chế tác từ đá quý. Mấy cô, mấy chị trong đoàn rất thích thú với món đồ trang sức đó. Nói vui chứ nếu được phép thì hẳn sẽ có cô nào, chị nào đó đeo thử để chụp ảnh đưa lên “phây” cho độc đáo. Sau khi thăm và tìm hiểu qua nhà trưng bày, trong chúng tôi nẩy ra mấy “tranh cãi”, đó là niên đại của Tháp cổ Vĩnh Hưng và ai là người xây dựng nên ngôi đền tháp này? Nếu như khẳng định tháp cổ Vĩnh Hưng thuộc về nền Văn hóa Óc Eo thì “tuổi đời” của nó ước chừng trên ngàn năm bởi “Văn hóa Óc Eo là một nền văn hóa cổ hình thành và phát triển ở Nam bộ Việt Nam từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 7 sau Công nguyên. Đây là một nền văn hóa lớn trong lịch sử Việt Nam, gắn liền với đất nước, con người ở vùng châu thổ hạ lưu sông Mê Kông, mà cụ thể là nhà nước Phù Nam và có quan hệ mật thiết với lịch sử Đông Nam Á cổ đại”. Còn như căn cứ vào cổ vật khai quật được, thì tuổi đời của Tháp cổ Vĩnh Hưng chừng thế kỷ 9 và vẫn do người Phù Nam xây dựng. Nhưng nếu dựa vào phong cách kiến trúc cùng kỹ thuật xây dựng thì Tháp cổ Vĩnh Hưng na ná như những Tháp Chăm hiện hữu ở nam Trung bộ và do người Chăm thực hiện. Như vậy Tháp cổ Vĩnh Hưng được xây dựng cách đây khoảng từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 6, bởi thời kỳ đó người Chăm với nhà nước Chăm Pa của mình do bị các nhà nước khác “dồn ép” nên người Chăm dịch dời về phương Nam. Họ người Chăm đã định cư ở vùng đất Tây Nam bộ hiện nay và dĩ nhiện họ đem theo tục thờ cúng tín ngưỡng của mình, cùng lối kiến trúc đền tháp của mình để xây dựng nên Tháp cổ Vĩnh Hưng? Còn anh Đặng Văn Khoa cho hay “Từ những hiện vật bằng đồng, bằng đá và bằng gốm được khai quật đã cho thấy một giai đoạn phát triển và phát triển khá dài kể từ khi nhà nước Chân Lạp thôn tính nhà nước Phù Nam trên vùng đất Tây Nam bộ hiện nay”. Câu trả lời vẫn thuộc về phía các nhà khoa học. Năm 2011, di tích Tháp cổ Vĩnh Hưng được trùng tu lớn, những chỗ tường gạch bị bong tróc hay hỏng hóc đều đã được sửa chữa, hàn gắn gần như nguyên bản. Anh Khoa cho hay “Khi tiến hành trùng tu Tháp cổ Vĩnh Hưng, chúng tôi đã phải ra tận Ninh Thuận, Bình Thuận để “đặt hàng” bà con người Chăm. Bởi lẽ người Chăm rất tinh thông việc xây dựng tháp gạch nung. Gạch cũng như một số thứ bằng gốm khác đều được phục dựng từ chính những lò gốm Chăm, do người Chăm sản xuất và từ chính thứ đất “Chăm” đấy”. Rồi anh Khoa chỉ tay lên tấm bằng công nhận là “Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia” cho Tháp cổ Vĩnh Hưng do Bộ Văn hoá – Thông tin nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch cấp năm 1992. Chùa Vĩnh Tràng là ngôi chùa thờ phật lớn nhất tỉnh Tiền Giang, được xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia năm 1984. Chùa bắt đầu được xây dựng từ đầu thế kỉ 19 bởi ông bà Bùi Công Đạt. Năm 1894, Hòa thượng Thích Huệ Đăng ở chùa Giác Lâm Gia Định về trụ trì đã tổ chức xây dựng thành ngôi đại tự và đặt tên là chùa Vĩnh Trường với ngụ ý ước cho chùa được “Vĩnh cửu đối sơn hà, trường tồn tề thiên địa”. Chính vì vậy, người dân vùng lân cận đến nay vẫn quen gọi là chùa Vĩnh Tràng. Năm 1907, Hòa thượng Trà Chánh Hậu cho sửa chữa phần chánh điện, pha trộn cả nét kiến trúc Á – Âu. Năm 1930, Hòa thượng Minh Đằng cho trùng tu toàn diện để chùa có diện mạo như ngày hôm ngôi chùa có lối kiến trúc độc đáo nhất Nam bộ, điểm nhấn của chùa Vĩnh Tràng là cổng tam quan với nghệ thuật ghép mảnh sành, sứ. Từ màu sắc của các loại sành sứ, những nghệ nhân xưa đã khéo léo xếp đặt thành nhiều bức tranh minh họa sự tích nhà Phật, truyện tích dân gian, đề tài tứ linh, tứ quý, hoa lá, mây trời… với sự hòa sắc tuyệt vời như tranh vẽ. Các bức thủ quyển mềm mại ghi những câu Phật hiệu bằng nét chữ điêu luyện Trấn tịnh sơn môn, Quảng đại nguyện môn, Tịnh độ huyền môn…Gồm có bốn hạng mục nối tiếp nhau tiền đường, chánh điện, nhà tổ, nhà hậu, ngôi chùa có diện tích dài 70m, rộng 20m, xây bằng xi măng và gỗ quý, nền đúc cao 1m, xung quanh xây tường vững chắc. Riêng mặt trước của tiền đường thì được xây dựng theo lối kiến trúc hài hòa Âu – Á với những hàng cột thanh mảnh, vòm cong và hoa văn nhiều màu sắc. Đi vào bên trong ta sẽ thấy một màu vàng óng ánh được thếp trên các hình chạm, trên các tượng phật. Đáng chú ý hơn cả là những đôi long trụ trong ngôi chính điện, đó là những cây cột tròn to, bằng gỗ quý kiến trúc theo kiểu “thượng thu hạ cách”.Nhìn từ xa du khách sẽ có cảm tưởng chùa như một ngôi nhà mang phong cách kiến trúc Châu Âu với những hàng cột thanh mảnh vòm cong, với bộ phù điêu bát tiên cưỡi thú cùng hoa văn thời phục hưng, vòm cửa kiểu La Mã, bông sắt của Pháp, gạch men của Nhật. Bên trong chánh điện và nhà tổ lại mang đậm nét kiến trúc Việt Nam, các hoành phi, tượng gỗ được chạm khắc rất khéo léo và tinh xảo với những hình ảnh vui tươi và sống gian bên trong chùa là nơi tập trung nhiều tác phẩm mỹ thuật của các thế hệ nghệ nhân khắp ba miền Bắc, Trung, Nam. Chẳng hạn như giữa lòng cột cái là bộ bao lam bát tiên kỵ thú. Tác phẩm này ra đời vào khoảng năm 1907 – 1908 do những nghệ nhân tại địa phương thực hiện. So với các bộ bao lam xung quanh, bộ này có niên đại sớm hơn, nhưng đạt trình độ mỹ thuật cao hơn. Đây là một bức phù điêu hiếm có của những năm đầu thế kỷ 20, chứng tỏ nghệ thuật tạo hình ở Nam bộ phát triển khá sớm. Bốn cột cái của chùa Vĩnh Tràng đều treo long trụ. Đôi phía ngoài chạm tứ linh do bà Lê Thị Ngởi ở Ba Tri Bến Tre hiến cúng vào năm 1909. Nét đặc biệt là đôi long trụ này có lối sắp xếp bố cục độc đáo có một không hai chạm chim phượng đứng trên đầu rồng. Có thể nói toàn bộ cái đẹp của chùa Vĩnh Tràng đều tập trung vào nghệ thuật tạo hình, trong đó phần tượng chiếm đa biệt, tại chùa còn có Bộ tượng mười tám vị La Hán không thua kém về mặt nghệ thuật so với tượng các vị La Hán chùa Tây Phương. 18 bức tượng này nằm ở hai bên tường chánh điện, được tạc từ gỗ mít, mỗi tượng cao khoảng 0,8m, bề ngang gối là 0,58m. Các vị La Hán đều cưỡi thú, trên tay cầm bửu bối. Lối đặc tả của nhóm tượng này cũng mang dáng dấp riêng, rất Nam bộ, nhưng lại thành công trong việc mô tả cảm xúc đặc trưng của từng vị La Hán, chứng tỏ ngoài tay nghề, tác giả còn khá am tường giáo lý nhà Phật. Nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường xác định những pho tượng đẹp nhất của chùa này là do thầy trò nghệ nhân Tài Công Nguyên thực hiện khoảng đầu thế kỷ 20. To nhất là tượng Di Đà do ông Tống Hữu Trung ở Vĩnh Long hiến cúng. Ngoài ra còn có tượng Hộ Pháp khuyến thiện trừng ác… Tất cả thể hiện đỉnh cao của nghệ thuật tạc tượng tròn khu vực đồng bằng sông Cửu quanh chùa là những vườn cây cảnh trồng nhiều loại hoa thơm cỏ lạ, những hồ nước thơm ngát hương sen và những cây cổ thụ che trùm bóng mát, tạo nên sự hài hòa tuyệt vời giữa khung cảnh thiên nhiên với không gian kiến trúc, khiến chùa thêm cổ kính, thâm nghiêm. Nổi bật giữa hoa viên là pho tượng phật Di Đà cao 24m bệ 6m, tượng 18m. Tượng màu trắng, diễn tả Phật đang đứng trông nom chúng sinh các cõi. Tượng Phật được nhiều người địa phương cho là biểu tượng của ngôi chùa hiện trung tâm thành phố Hồ Chí Minh khoảng 80km, Vĩnh Tràng được xem là ngôi chùa cổ danh tiếng và là một công trình kiến trúc đặc sắc. Có thể nói rằng vẻ đẹp của chùa tập trung ở nghệ thuật tạo hình và cũng chính là sự phản ánh lịch sử mỹ thuật của mảnh đất Tiền Giang. Ngày nay, chùa đã trở thành điểm du lịch không thể bỏ qua của những du khách trong nước cũng như nước ngoài khi có dịp đến tham quan thành phố Mỹ Tho. Hơn thế nữa còn là nơi nghiên cứu tìm hiểu của nhiều người khi đến tham quan ngôi chùa ấn tượng này. Hỏa biến hồn tôi mảnh sành cong Đứng trước ngôi đền tháp cổ, chúng tôi ngỡ như nó mới được ông Lunet de Lajonquiere, người Pháp phát hiện ra. Nghĩa là ngôi đền tháp vẫn đứng sừng sững mà "đơn côi" giữa màu xanh của cây, của lúa. Theo lời kể, hồi phát hiện ra ngôi đền này, cả khu vực quanh đây đều ngập nước, chỉ trên một gò đất nổi lên giữa mênh mông ấy là cây lá rậm rạp che khuất mọi vật. Nhà nghiên cứu người Pháp đã linh cảm rằng bên trong sự rậm rạp kia là một thứ gì đó rất đáng khám phá. Và thế là ông cùng đồng sự kiên trì vạch lá phát cây. Một ngôi đền được xây bằng gạch nung đã hiện ra. Ông đặt tên là tháp Trà Long. Đến năm 1917, một nhà nghiên cứu người Pháp khác tên là Henri Parmentier tiếp tục khảo sát và công bố kết quả trong tập san của Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp với tên gọi mới là tháp Lục Hiền. Tháp cổ Vĩnh Hưng hiện nay. Đỗ Lệnh Hùng Tú giải thích thêm cho chúng tôi sau khi tôi có ý thắc mắc vì sao ở vùng đồng bằng sông Cửu Long lại đã từng có và tồn tại một nền văn hóa cổ như vậy. Xưa kia vùng đồng bằng sông Cửu Long là vùng đất "Thủy Chân Lạp", có nghĩa là vùng đất ngập nước của nhà nước Chân Lạp. Ban đầu Chân Lạp là một nhà nước chư hầu của nhà nước Phù Nam ở phía Bắc, tức là vùng Nam Trung bộ hiện nay. Nhưng chỉ trong vòng 60 năm sau đó, nhà nước Chân Lạp này đã giành được độc lập và dần dần lấn lướt nhà nước Phù Nam. Đến thế kỷ 6 thì họ đã xâm chiếm Phù Nam. Cuối cùng, trong thế kỷ 7 nhà nước Chân Lạp đã xâm chiếm toàn bộ Phù Nam". Đỗ Lệnh Hùng Tú nói đến đấy thì dừng lại, ông nhìn vẻ mặt vẫn còn chưa nguôi thắc mắc của chúng tôi, rồi nói tiếp "Cái hay là nhà nước Chân Lạp tuy thôn tính nhà nước Phù Nam nhưng họ lại hấp thu nền văn hóa Phù Nam. Mà văn hóa Óc Eo là một nền văn hóa có nguồn gốc bản địa, chủ nhân của nó là những cư dân Phù Nam. Và văn hóa Phù Nam chịu ảnh hưởng tín ngưỡng Bà la môn truyền từ Ấn Độ tới". Bàn mài thuốc cổ. Tháp cổ Vĩnh Hưng được gọi như hiện nay bởi các nhà khoa học Việt Nam đã đặt tên theo địa danh mà ngôi đền tháp hiện hữu - xã Vĩnh Hưng A, thuộc huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Tháp cổ Vĩnh Hưng xưa kia có lẽ không đơn lẻ mà là cụm kiến trúc tín ngưỡng với nhiều tháp hoặc nhiều khối nhà, là nơi các tín đồ đạo Bà la môn thờ linh vật phồn thực theo tín ngưỡng của mình. Bên trong lòng tháp cổ Vĩnh Hưng chúng tôi được mục sở thị hai linh vật của tín ngưỡng đạo Bà la môn, đó là linh vật Linga sinh dục nam và linh vật Yoni sinh dục nữ. Đấy đều là hai linh vật có tính phồn thực mà người theo đạo Bà la môn rất tôn trọng. Dĩ nhiên khi tạc ra nó người xưa đã đạt tới độ nghệ thuật và gạt bỏ được sự dung tục. Chúng tôi sau khi đã quan sát thật kỹ bên trong, bên ngoài của Tháp cổ Vĩnh Hưng, dĩ nhiên cũng chụp kha khá các kiểu ảnh, thì được anh Đặng Văn Khoa, cán bộ Ban quản lý các khu di tích và danh thắng tỉnh Bạc Liêu, hiện là người trông coi kiêm thuyết minh viên di tích Tháp cổ Vĩnh Hưng mời vào tham quan nhà trưng bày hiện cổ vật tháp Vĩnh Hưng. Cũng như các ngôi đền tháp cổ khác, tháp cổ Vĩnh Hưng được xây dựng dạng gạch nung. Cho đến giờ giới khoa học vẫn chưa thể nói chắc chắn được rằng Tháp Vĩnh Hưng được xây dựng bằng gạch nung trước hay xây dựng xong mới nung? Tuy nhiên, dấu ấn kiến trúc cổ xưa bao giờ cũng là "bí mật lịch sử" để người đời sau phải "lao tâm khổ tứ" tìm lời giải thích. Anh Đặng Văn Khoa chỉ tay vào từng hiện vật khảo cổ đang được trưng bày trong Nhà trưng bày. Đây là một chiếc bàn mài thuốc bằng đá, nhìn thoáng biết ngay chiếc bàn mài thuốc này giống hệt những chiếc thuyền tán thuốc bắc bằng đồng của những thầy lang đông y. Anh Khoa cho biết thêm "Căn cứ vào bàn mài thuốc bằng đá này cho thấy từ rất lâu những cư dân cổ đã biết công dụng của cây lá thuốc và biết cách bào chế thuốc để chữa bệnh. Điều đó cũng cho thấy người xưa đã có kỹ năng, kỹ nghệ trong sản xuất ra những thứ thuốc có nguồn gốc từ chính mảnh đất họ sinh sống. Cổ vật trong nhà trưng bày. Ngoài công cụ bằng đá, các nhà khảo cổ cũng đã tìm thấy ở Tháp cổ Vĩnh Hưng nhiều vật dụng được làm bằng gốm. Điều này không có gì ngạc nhiên bởi người xưa đã biết cách nung gạch xây dựng tháp tinh vi đến nỗi chúng ta hiện nay vẫn lắc đầu thán phục. Chúng tôi đã được xem những chiếc bình đựng nước có vòi rót chẳng khác gì những chiếc ấm tích pha chè. Hẳn người xưa đã biết cách tích trữ nước sạch hoặc nước đun sôi để sử dụng hàng ngày. Bên cạnh đó là những chiếc hũ đáy tròn để đựng chứa nước, tất cả đều bằng gốm, chứng tỏ công nghệ sản xuất thủ công nghiệp với kỹ nghệ bàn xoay đã có ở vùng đất này từ rất sớm. Rồi còn những viên gạch dùng để trang trí trong xây dựng có hình giống chiếc lá đề. Những vật dụng trang trí khác như những đầu trụ bằng gốm. Ở một gian trưng bày khác chúng tôi đã thấy những dụng cụ lao động sản xuất, đặc biệt là đồ trang sức được chế tác từ đá quý. Mấy cô, mấy chị trong đoàn rất thích thú với món đồ trang sức đó. Nói vui chứ nếu được phép thì hẳn sẽ có cô nào, chị nào đó đeo thử để chụp ảnh đưa lên "phây" cho độc đáo. Sau khi thăm và tìm hiểu qua nhà trưng bày, trong chúng tôi nẩy ra mấy "tranh cãi", đó là niên đại của Tháp cổ Vĩnh Hưng và ai là người xây dựng nên ngôi đền tháp này? Nếu như khẳng định tháp cổ Vĩnh Hưng thuộc về nền Văn hóa Óc Eo thì "tuổi đời" của nó ước chừng trên ngàn năm bởi "Văn hóa Óc Eo là một nền văn hóa cổ hình thành và phát triển ở Nam bộ Việt Nam từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 7 sau Công nguyên. Đây là một nền văn hóa lớn trong lịch sử Việt Nam, gắn liền với đất nước, con người ở vùng châu thổ hạ lưu sông Mê Kông, mà cụ thể là nhà nước Phù Nam và có quan hệ mật thiết với lịch sử Đông Nam Á cổ đại". Còn như căn cứ vào cổ vật khai quật được, thì tuổi đời của Tháp cổ Vĩnh Hưng chừng thế kỷ 9 và vẫn do người Phù Nam xây dựng. Nhưng nếu dựa vào phong cách kiến trúc cùng kỹ thuật xây dựng thì Tháp cổ Vĩnh Hưng na ná như những Tháp Chăm hiện hữu ở nam Trung bộ và do người Chăm thực hiện. Như vậy Tháp cổ Vĩnh Hưng được xây dựng cách đây khoảng từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 6, bởi thời kỳ đó người Chăm với nhà nước Chăm Pa của mình do bị các nhà nước khác "dồn ép" nên người Chăm dịch dời về phương Nam. Họ người Chăm đã định cư ở vùng đất Tây Nam bộ hiện nay và dĩ nhiện họ đem theo tục thờ cúng tín ngưỡng của mình, cùng lối kiến trúc đền tháp của mình để xây dựng nên Tháp cổ Vĩnh Hưng? Còn anh Đặng Văn Khoa cho hay "Từ những hiện vật bằng đồng, bằng đá và bằng gốm được khai quật đã cho thấy một giai đoạn phát triển và phát triển khá dài kể từ khi nhà nước Chân Lạp thôn tính nhà nước Phù Nam trên vùng đất Tây Nam bộ hiện nay". Câu trả lời vẫn thuộc về phía các nhà khoa học. Năm 2011, di tích Tháp cổ Vĩnh Hưng được trùng tu lớn, những chỗ tường gạch bị bong tróc hay hỏng hóc đều đã được sửa chữa, hàn gắn gần như nguyên bản. Anh Khoa cho hay "Khi tiến hành trùng tu Tháp cổ Vĩnh Hưng, chúng tôi đã phải ra tận Ninh Thuận, Bình Thuận để "đặt hàng" bà con người Chăm. Bởi lẽ người Chăm rất tinh thông việc xây dựng tháp gạch nung. Gạch cũng như một số thứ bằng gốm khác đều được phục dựng từ chính những lò gốm Chăm, do người Chăm sản xuất và từ chính thứ đất "Chăm" đấy". Rồi anh Khoa chỉ tay lên tấm bằng công nhận là "Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia" cho Tháp cổ Vĩnh Hưng do Bộ Văn hoá - Thông tin nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch cấp năm 1992.

thuyết minh về tháp cổ vĩnh hưng